Tác
giả Simon Ings mới viết một cuốn sách thuật lại những câu chuyện liên quan đến
nghiên cứu khoa học dưới thời Stalin. Cuốn cách có tựa đề là "Statlin and the
Scientists: A History of Triumph and Tragedy 1905-1953." Tôi chưa đọc cuốn
sách, mà chỉ đọc vài bài điểm sách, nên muốn chia sẻ vài thông tin để chúng ta
hiểu hơn về khoa ở ... Việt Nam.
Người
Bolsheviks xem chủ nghĩa Marx là một khoa học. Họ nghĩ học thuyết Marx có thể
giải thích bất cứ hiện tượng xã hội nào. (Nhưng dĩ nhiên, Karl Popper thì xem
chủ nghĩa Marx là phi khoa học). Những người như Lenin và Stalin xem họ là những
nhà khoa học loại "polymath", và tự cho họ cái quyền can thiệp vào tất cả các
lĩnh vực khoa học. Do đó, họ rất quan tâm đến khoa học, và xem đó là phương tiện
để biến Liên Xô thành thành trì của khoa học trên thế giới, và làm gương cho các
nước chư hầu như Đông Âu và có lẽ Việt Nam nữa. Do đó, họ đầu tư rất nhiều cho
nghiên cứu khoa học. Theo tác giả Simon Ings, vào thời điểm Stalin chết vào ngày
5/3/1953, Liên Xô là nước tài trợ cho khoa học và kĩ thuật dồi dào nhất. Nhưng
kết quả của sự đầu tư đó là những thành tựu vinh quang, nhưng cũng là những trò
cười cho thế giới trí
thức.
Nhưng
từ bản chất họ rất ghét giới khoa học mà họ cho là "giai cấp tư sản". Khổ nỗi là
đa số giới khoa học (và nghệ sĩ) đều thuộc giai cấp trung lưu và thượng lưu. Họ
thừa hiểu rằng giới trí thức Nga và giới khoa học nói chung không ưa cái chủ
nghĩa mà Lenin và Stalin theo đuổi, nhưng đồng thời họ rất cần bọn này để xây
dựng xã hội cộng sản và những thiết chế khoa học mới. Những kẻ như Lenin và
Stalin do đó muốn tạo ra một nhóm khoa học mới, gọi là "khoa học vô sản", đế đối
trọng với "khoa học tư sản". Cái tai họa của khoa học Xô Viết là bắt đầu từ nhóm
khoa học vô sản
này.
Thoạt đầu, giới khoa học Xô Viết (chủ yếu là Nga) ngạc nhiên khi thấy giới lãnh đạo đầu tư cho họ rất nhiều về thiết bị. Ngoài ra, họ còn được trao tặng những chức danh và giải thưởng rất kêu. Nhưng bức tranh dần dần đen tối khi Stalin đòi hỏi phải có những tiến bộ mà ông muốn. Ông đặt lên giới khoa học những áp lực rất lớn. Nói thẳng ra, Stalin trở thành một kẻ khủng bố đối với giới khoa học Xô Viết.
Trọng
tâm của cuốn sách của Simon Ings là những câu chuyện khủng bố đã hoành hành giới
hoa học Xô Viết ngay từ những năm trong thập niên 1930s. Sự tồn tại của giới
khoa học trong xã hội cộng sản không chỉ là cơ sở vật chất, tài trợ nghiên cứu,
mà quan trọng hơn là lệ thuộc vào những người có quyền thế chính trị như Andrei
Zhdanov và đặc biệt là kẻ độc tài lừng danh và sát nhân lớn nhất trong lịch sử
là Stalin. Tác giả Simon Ings còn dành nhiều trang cho nhân vật trẻ con là
Trofim Lysenko, người mà sau này trở nên một cánh tay khoa học của Stalin.
Lysenko là một người ít học và bất tài, nhưng lại là người có ảnh hưởng lớn đến
khoa học Xô Viết. Sau sự thất bại thê thảm của chính sách hợp tác xã vào những
năm 1930s, Lysenko nghĩ đến việc phát triển một giống lúa mới để giải quyết vấn
đề năng suất quá thấp lúc đó. Lysenko cho rằng ông có thể "xuân hóa" giống lúa
mì bằng cách làm cho cây lúa mì lạnh để có thể thu hoạch vào mùa xuân. Dĩ nhiên,
cái phương pháp "xuân hóa" này của Lysenko thất bại thê thảm. Simon Ings mô tả
nhiều ý tưởng và phương pháp của Lysenko là hết sức ngớ ngẩn, vô lí, và lố bịch.
Trong một hội nghị khoa học tại Nga có sự tham gia của các nhà khoa học phương
Tây, những người vô cùng ngạc nhiên khi nghe Lysenko mô tả lí thuyết tái sản
sinh của ông là do các tế bào "ăn thịt" lẫn nhau rồi ... phun ra. Một trong
những đồng nghiệp của Lysenko là Nikolai Koltsov mỉa mai nói rằng "Ông ấy có thể
biến con gián thành con ngựa chỉ qua cho ăn
uống."
Qua
cuốn sách, chúng ta còn biết rằng Stalin rất thích chanh. Ông thích trồng chanh
trong vườn ở biệt thự (dacha?) gần Moscow. Lysenko thuyết phục Stalin trồng
chanh theo cách "xuân hóa" của ông, nhưng một nhà di truyền thực vật rất nổi
tiếng tên là Nikolai Vavilov học phản đối. Lysenko không ưa Vavilov và cho rằng
cây cối không có gen gì cả. Vavilov phải cầu cứu đến Stalin, nhưng Vavilov đã
gặp ... sai người. Stalin chẳng những khinh bỉ mà còn chế nhạo Vavilov rằng "Anh
là Vavilov người đã vá víu mấy bông hoa, lá, nhánh và mấy thứ cây cỏ vớ vẩn,
thay vì giúp cho ngành nông như viện sĩ Lysenko." Stalin ra lệnh bắt giam
Vavilov, và nhà di truyền học lừng danh của Liên Xô đã chết trong tù vào năm
1943.
Sau
khi chiến tranh kết thúc, Stalin bị sốc khi thấy vũ khí hạt nhân của Mĩ trở
thành một sự thách thức và đe dọa đến Xô Viết. Stalin tức tối nhận định rằng
"Chúng ta đã lạc hậu so với phương Tây từ 50 đến 100 năm," và tuyên bố sẽ làm
cho Xô Viết nhảy vọt sao cho chỉ sau các nước tiên tiến 10 năm. Stalin cảnh báo
nếu Xô Viết không hiện đại hóa thì sẽ bị tiêu
diệt.
Stalin
ra lệnh cho tay sai đắc lực của y là Lavrenti Beria phải nhanh chóng xây dựng
bom hạt nhân. Thật ra, trước đó, Beria đã tạo ra những labo đặc biệt trong các
nhà tù mà y gọi là "sharashki". Cần nói thêm rằng năm 1937-1938, Stalin
bắt hơn 100 nhà vật lí ở Leningrad, với mục đích duy nhất là tiêu diệt đời sống
văn hóa và trí thức. Đó chỉ là một phần trong chiến dịch thanh trừng vĩ đại, mà
kết quả là gần 8 triệu người bị bắt và gần 1 triệu người bị xử
tử.
Làm
việc trong các sharashki là những nhà khoa học sáng giá nhất [nhưng đang bị cầm
tù], và chính những tù nhân đặc biệt này đã giúp cho Xô Viết đạt được những
thành tự ngoạn mục. Nhà vật lí Leon Theremin được cứu từ các hầm mỏ ở Kolyma để
vào làm việc trong sharashki của Beria, và chính Theremin đã sáng chế ra các
công cụ nghe lén. Sau này, Theremin được trao giải thưởng
Stalin.
Nhưng
cũng tại các sharashki này, một số nhà khoa học bị đày đọa đến cùng. Các nhà vật
lí lừng danh như Peter Kapitsa, Yulii Khariton và Igor Kurchatov bị Beria hành
xử một cách lưu manh, nên họ đã viết thư cho Stalin và phàn nàn rằng Beria không
tỏ ra kính trọng giới khoa học. Stalin hứa với họ là sẽ đuổi Beria để họ hài
lòng, nhưng cảnh báo họ là không được đụng đến Beria. Năm 1949, qua nỗ lực
nghiên cứu của các nhà vật lí, Stalin đã có được bom hạt nhân. Tiếp theo đó là
những thành tựu đáng kể như máy bay Tupolev và MiG, và xe tăng T-34 được xem là
một trong những xe tăng tốt nhất thế
giới.
Đọc
qua những câu chuyện này và suy nghĩ của Stalin và Lenin, chúng ta thấy hình như
có một sự trùng hợp ở miền Bắc Việt Nam trước 1975 và miền Nam Việt Nam sau
1975. Cũng như Liên Xô dưới thời Stalin muốn tạo ra một thế hệ nhà khoa học vô
sản và loại bỏ các nhà khoa học tư sản, Việt Nam thời đó cũng tạo điều kiện tối
đa để hình thành một thế hệ khoa học mới từ con em cách mạng và loại bỏ những
người thuộc thế hệ cũ. Liên Xô có một cuộc thanh trừng trí thức, thì Việt Nam
cũng có sự kiện "Nhân văn Giai phẩm". Cũng giống như Stalin thiết lập giải
thưởng khoa học kĩ thuật lấy tên ông, thì Việt Nam cũng có giải thưởng lấy tên
lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhưng mãi đến 1996 mới trao giải. Cũng như Liên Xô dưới
thời Stalin rất quan tâm đến ứng dụng khoa học, Việt Nam cũng có bí thư Lê Duẩn
rất quan tâm đến những vấn đề mang tính ứng dụng. Trong cuốn Hồi kí Trần Đĩnh,
tác giả có thuật rằng ông Lê Duẩn rất quan tâm đến đời sống người dân, và ông
hỏi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch rằng "một bát cơm ăn với rau muống luộc có khác
một bát cơm ăn với rau muống xào không." Tuy nhiên, những câu chuyện về
thành tựu khoa học dưới thời Stalin có lẽ chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam
dù là một nơi có các thiết chế xã hội mô phỏng theo Xô
Viết.
Simon
Ings nhận định rằng những thành tựu nổi bật nhất của khoa học Xô Viết dưới thời
Stalin diễn ra ở trong các nhà tù, chứ không phải các viện nghiên cứu hay đại
học. Những thành tựu này, trớ trêu thay, đạt được dưới sự khủng bố chính trị của
Stalin. Viết đến đây tôi nhớ đến công trình Tử Cấm Thành của Tàu là do kiến trúc
sư Nguyễn An thiết kế dưới áp lực khủng bố của hoàng đế Trung Hoa thời thế kỉ
15. Tình trạng này cũng giông giống như câu "Cái khó ló cái
khôn."
EmoticonEmoticon