Xin giới thiệu đến các bạn một bài viết mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh về quá trình liên hệ giữa Kampuchea và Tàu. Ai cũng biết chế độ diệt chủng Khmer Đỏ là do Tàu chống lưng, nhưng những gì xảy ra trước và sau sự sụp đổ của chế độ đó là một khoảng trống. Bài viết này phác họa những sự kiện đó và giúp cho chúng ta giải thích được tại sao Việt Nam đang đánh mất một người láng giềng quan trọng.
Trang
Sử Theo Thực Đơn Khmer Đỏ Và Mạch Sống Trung Quốc
Tưởng niệm hai triệu vong
linh
đã chết trong thời kỳ Khmer
Đỏ
Lời Dẫn: "History à la
carte", là một thuật ngữ rất mới của Chương Lập Phàm/ Zhang Lifan một sử gia
Trung Quốc, khi trả lời phỏng vấn báo New York Times [March, 2015], ông đã đưa
ra một ví von: "lịch sử theo thực đơn / history à la carte", theo cái nghĩa nhà
nước Trung Quốc chỉ muốn phổ biến tuyên truyền những điều thấy có lợi, trong khi
cố né tránh những khía cạnh tiêu cực có thể gây chỉ trích. Mối liên hệ thắm
thiết giữa Bắc Kinh và Khmer Đỏ đang là trang khuyết sử, không có trong thực đơn
của Trung Quốc.
(1)
NGÔ THẾ
VINH
"Không có trợ giúp của Trung Quốc, chế độ
Khmer Đỏ không thể tồn tại quá một tuần lễ. Without China's assistance, Khmer
Rouge regime would not last a week" Andrew Mertha, Cornell University 2014.
(2)
"Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc không có liên hệ
chính trị nào với Khmer Đỏ. Sự trợ giúp chỉ giới hạn trong việc cung cấp thực
phẩm và nông cụ." Trương Kim Phong/ Zhang Jinfeng,
đại xứ TQ tại Cambodia, 2010.
(1)
*
Dân số Cambodia 2017 hơn 16 triệu, tăng rất
nhanh hơn gấp đôi so với năm 1975 chỉ có hơn 7.5 triệu, hơn 90% theo Đạo Phật
Nguyên Thuỷ hay Phật giáo Nam Tông / Theravada Buddhism được coi như quốc giáo
của Cambodia. Các sắc tộc thiểu số chính bao gồm: người Việt, người Chăm, người
Hoa.
CHÂU ĐẠT QUAN, VÀ CHÂN LẠP PHONG THỔ
KÝ
Vào cuối thế kỷ 13, triều đại nhà
Nguyên / Yuan một người Tàu tên Châu Đạt Quan / Chou Ta-Kuan周达观 gốc
Ôn Châu / Wenzhou tỉnh Phúc Kiến, nhà hải hành Trung Hoa, đã du hành từ Biển
Đông rồi theo sông Mekong lên tới Biển Hồ tới thăm Angkor (1296) vào thời vua
Indravarman III, lưu lại đó gần một năm (1297). Châu Đạt Quan không phải là
người Tàu đầu tiên tới xứ Chùa Tháp, nhưng ông được biết tới do cuốn hồi ký kỳ
thú Chân Lạp Phong Thổ
Ký 真臘風土記, viết về địa lý nhân văn nước Chân Lạp tức
Cambodia ngày nay; cuốn sách sau đó được dịch sang tiếng Pháp
[Mémoires Mémoires sur les Coutumes du Cambodge], tiếng Anh
[The Customs of Cambodia], tiếng Đức [Sitten in
Kambodscha], và
tiếng Việt của ký giả Lê Hương, do Kỷ Nguyên Mới xuất bản
1973.

Hình 1: từ trái, Chân Lạp Phong Thổ Ký, bản
tiếng Việt của Lê Hương, Saigon 1973; Mémoires sur les Coutumes du Cambodge, bản
tiếng Pháp của Paul Pellot, Hà Nội 1902; The Customs of Cambodia, bản tiếng Anh
1993; Sitten in Kambodscha, bản tiếng Đức 1999; [nguồn: internet]
Học giả Tây phương như Peter Harris,
người có công dịch từ nguyên bản tiếng Hán sang tiếng Anh đã đối chiếu chuyến du
hành thám hiểm của Marco Polo và Châu Đạt Quan trong cùng thời kỳ
này.
Có lẽ người Tàu đã có mặt trên xứ Chùa Tháp sớm hơn
nhiều. Trường hợp Châu Đạt Quan cũng giống như Henri
Mouhot sau này, tuy Mouhot (1826-1961) không phải là người Tây Phương đầu tiên
tới Angkor nhưng do những trang bút ký hấp dẫn và lôi cuốn được in ra 3 năm sau
khi ông mất khiến tên tuổi Mouhot đã gắn liền với khu đền đài
Angkor.
NGƯỜI TÀU TRÊN ĐẤT
MIÊN
Do người Tàu hầu như đã có mặt khắp nơi
trên thế giới, nên mới có câu tục ngữ ví von: “Ở đâu có khói,
thì ở đó có người Tàu! Where there's smoke, there's
Chinese”
[Bước sang thế kỷ 21, câu ví von trên mang
thêm một ý nghĩa khác: “Ở đâu có khói, thì ở đó có Tàu! Where there's smoke,
there's China” theo cái nghĩa, nơi nào có Tàu nơi đó có ô nhiễm, vì Trung Quốc
là quốc gia hàng năm thải ra 9.7 tỉ tấn khí CO2, chiếm 1/4 tổng lượng khí thải
nhà kính / greenhouse gases toàn cầu, nhiều hơn của cả hai nước kỹ nghệ Mỹ và Ấn
Độ cộng
lại].
Vào khoảng cuối thế kỷ 17, đời nhà Thanh
do những biến động chính trị ở Hoa lục với phong trào Bài Mãn
Phục Minhnên đã có đông đảo những cộng đồng người Hoa di cư xuống các nước
Đông Nam Á như Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái. Họ có gốc gác từ các tỉnh duyên
hải phía đông nam Trung Quốc như Hải Nam, Quảng Đông, Phúc Kiến, mà người Khmer
gọi một tên chung là Cambodia's Hua Chiao hay người Hoa hải ngoại / Overseas
Chinese. Đặc điểm của đám di dân này đa số là đàn ông, và qua những cuộc hôn
nhân hợp chủng, họ mau chóng hội nhập vào các cộng đồng cư dân bản
địa.
Không ít các cấp lãnh đạo xứ Chùa Tháp
đều ít nhiều có mang huyết thống Hán tộc bước sang thế hệ thứ hai thứ ba như Lon
Nol [ông ngoại là người Hoa gốc Phúc Kiến/ Fujian], Ieng Sary [sinh đẻ ở Trà
Vinh, nam Việt Nam, mẹ gốc Hoa], Khieu Samphan [cũng có gốc Hoa từ bà ngoại],
Nuon Chea [có cha người Hoa và mẹ người Khmer lai Hoa], Pol Pot [có cha là người
Khmer gốc Hoa và Saloth Sar là một tên khác của Pol Pot, Sar có nghĩa là trắng
trong ngôn ngữ Khmer, để phân biệt với nước da rất sậm của người Khmer thuần
chủng]...
Sau thời kỳ Khmer Đỏ, trong những năm
gần đây, đã lại có thêm những đợt người Tàu từ Hoa Lục, Đài Loan, Mã Lai di cư
vào Cambodia tìm cơ hội làm ăn lập
nghiệp.
Người Tàu có khả năng thích nghi cao, họ
tới các thành phố nhưng cũng có mặt cả những vùng thôn quê hẻo lánh. Và điều ai
cũng nhận thấy là các cộng đồng người Hoa dễ dàng được đón nhận và họ không có
khó khăn để hoà nhập vào xã hội người Miên. Do có tài buôn bán và cần cù chịu
khó lại đoàn kết nên họ nhanh chóng trở thành những doanh nhân thế lực khống chế
nền thương mại kinh tế và cả có nhiều ảnh hưởng chính trị trên quốc gia
này.
Rất khác với người Việt cho dù đã trải
qua nhiều thế hệ, sinh đẻ trên đất Miên nhưng họ vẫn luôn luôn bị kỳ thị do mối
thù hận lịch sử và bị người Khmer gọi một cách bỉ thử là bọn "Yuon / bọn bắc",
và cả với cộng đồng người Chăm theo đạo Islam cũng bị người Khmer nghi kỵ vì bị
coi như hợp tác với người Việt trong quá khứ như một lực lượng kìm kẹp. Người
Việt và người Chăm sống trên đất Miên là hai cộng đồng thiểu số bị sát hại nhiều
nhất qua chính sách tẩy sạch chủng tộc / ethnic cleansing trong thời kỳ Khmer
Đỏ.
Không có con số chính xác về số người Tàu
hiện sống ở xứ Chùa Tháp, con số 500 000 vẫn được xem là quá thấp, vì số đông
người Miên gốc Hoa / Chinese Cambodian đã được coi như người Miên không nằm
trong con số thống kê này.
KHMER ĐỎ VÀ CHINA
CONNECTIONS
700 năm sau chuyến du hành thăm xứ Chùa Tháp
của Châu Đạt Quan, mối liên hệ giữa Cambodia và Trung Quốc là một chặng đường
lịch sử rất gập ghềnh và phức tạp. Nếu lấy dấu mốc kể từ ngày Pháp trao trả độc
lập cho Cambodia (1953), thì dù với thể chế nào, từ thời ông Hoàng Sihanouk tới
Lon Nol, rồi Pol Pot hay Hun Sen; mối liên hệ song phương giữa Bắc Kinh và Phnom
Penh luôn luôn có một mẫu số chung: đó là "chính sách đối trọng" của Bắc Kinh
đối với Việt Nam, làm sao giảm thiểu ảnh hưởng của Việt Nam trên quốc gia láng
giềng này. Cho dù cả Bắc Kinh và Hà Nội vẫn rêu rao mối quan hệ khăng khít "môi
hở răng lạnh" giữa hai đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc với khẩu hiệu "bốn
tốt và 16 chữ vàng" nhưng Bắc Kinh thì luôn luôn theo đuổi một chiến lược nhất
quán và giấu mặt cốt sao làm suy yếu Việt Nam đưa quốc gia này vào vòng lệ
thuộc. Cũng phải kể tới "một cuộc chiến môi sinh" không tuyên chiến của Bắc
Kinh, huỷ hoại con sông Mekong cũng là huỷ hoại Đồng Bằng Sông Cửu Long, là vựa
lúa cũng là nguồn sống của Việt
Nam.
Rất sớm, cấp lãnh đạo Khmer Đỏ đã được
Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón tại Bắc Kinh và ca ngợi. Tháng 9, 1977 Pol Pot
lại sang viếng thăm Trung Quốc và được Hoa Quốc Phong, người kế thừa Mao Trạch
Đông tiếp đón trọng hậu. Pol Pot khẳng định, "Đối với Cambodia,
sự giúp đỡ quý báu nhất của Trung Quốc là tư tưởng Mao Trạch
Đông".

Hình 2: Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón cấp
lãnh đạo Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, từ trái: Mao Trạch Đông, Pol Pot và Ieng Sary.
Khmer Đỏ rập khuôn theo Mao, được hậu thuẫn và viện trợ tối đa của Bắc Kinh, đã
tiến chiếm Nam Vang 17.04.1975 khởi đầu một chế độ diệt chủng với 2 triệu người
chết, trong đó không ít nạn nhân là người Việt, người Chăm Islam trong khoảng
thời gian từ 1975-1979. [nguồn: photo
AFP]
Vẫn còn đó những trang sử chưa được soi
sáng: mức độ liên hệ giữa Trung Quốc với chế độ diệt chủng Khmer Đỏ. Cho đến
nay, đối với Trung Quốc đó vẫn là điều cấm kỵ / taboo, một hộp đen / black box
mà Bắc Kinh tránh nhắc tới và muốn mọi người lãng
quên.
Và cũng không ngạc nhiên để hiểu tại
sao, trong bao nhiêu năm, Bắc Kinh luôn luôn chống đối việc đưa ra các lãnh tụ
Khmer Đỏ ra xét xử chính vì mối e ngại những điều sẽ được phanh phui trước toà.
Những sự thật ấy nếu được phô bày ra trước thế giới, đó là một hổ thẹn về thể
diện quốc gia / national embarassment cho nhà nước Trung
Quốc.
Khi được hỏi và phải lên tiếng thì các
viên chức Trung Quốc hoặc tìm cách phủ nhận hoặc cố giảm thiểu tầm quan trọng
của mối liên hệ này. Zhang Jinfeng / Trương Kim Phong đại sứ Trung Quốc tại
Cambodia, năm 2010 đã tuyên bố: "Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc
không có liên hệ chính trị nào với Khmer Đỏ. Sự trợ giúp nếu có chỉ giới hạn
trong việc cung cấp thực phẩm, và nông cụ như lưỡi cào, liềm
hái."
Nhưng theo Youk Chhang người sống sót
sau Khmer Đỏ, hiện là Giám đốc Trung Tâm Tài liệu Cambodia / Documentation
Center of Cambodia thì sự thật không phải như vậy. Theo hồ sơ lưu trữ và những
lời khai của các cựu viên chức Khmer Đỏ thì "Cố vấn Trung Quốc
có mặt cả với đám cai tù / prison guards lên tới cấp lãnh đạo cao nhất của Khmer
Đỏ; và Trung Quốc chưa bao giờ chịu thừa nhận hoặc xin lỗi cho sự kiện
này." (1)
Theo sử gia Milton Osborne thì phần tham
dự dính líu của Trung Quốc với Khmer Đỏ có tầm mức sâu rộng và quan trọng hơn
rất nhiều. Từ trước và sau 1975, Khmer Đỏ đã được Trung Quốc trực tiếp hỗ trợ
trên mọi phương
diện.
Theo Andrew Mertha, Giám đốc Chương
trình Nghiên cứu Trung Quốc và Á châu Thái Bình Dương / China and Asia Pacific
Studies Program tại Đại học Cornell, cũng là tác giả cuốn
sách Brothers in Arms; Chinese Aid to the Khmer Rouge
1975-1979, thì chính Trung Quốc đã cung cấp 90% viện trợ cho
Khmer Đỏ: từ lương thực, các thiết bị xây dựng tới trọng pháo, xe tăng và cả máy
bay. Cho dù biết Khmer Đỏ đang tàn sát chính nhân dân Cambodia nhưng đám cố vấn
quân sự và các kỹ sư Trung Quốc vẫn cứ tiếp tục trợ giúp cho những người bạn
đồng minh cộng sản của họ. Andrew Mertha khẳng định: "Không có
trợ giúp của Trung Quốc, Khmer Đỏ không thể tồn tại quá một tuần
lễ." (2)
Giới nghiên cứu cho rằng ít nhất có tới
hàng chục ngàn cố vấn Trung Quốc được mệnh danh là "chuyên viên kỹ thuật" hiện
diện kín đáo từ cấp lãnh đạo cao nhất của Khmer Đỏ xuống tới hạ tầng, cùng với
viện trợ quân sự với đủ loại súng đạn vũ khí và cả huấn luyện. Trung Quốc còn
giúp Khmer Đỏ xây dựng đường xá, cầu cống, đường sắt, nhà máy lọc dầu kể cả một
phi trường lớn nơi tỉnh Kampong Chhnang cách thủ đô Nam Vang hơn 90 km, với
đường bay dài 2.4 km; tới cuối năm 1978 các công trình này gần như hoàn tất. Có
giả thiết cho rằng, phi đạo ấy có thể sẽ được Trung Quốc sử dụng như điểm xuất
phát cho các máy bay quân sự ném bom oanh kích các tỉnh phía nam Việt Nam khi có
chiến tranh. [Hình
4]

Hình 3: Bộ trưởng Quốc Phòng Khmer Đỏ Son Sen
(giữa), đứng bao quanh bởi các cố vấn Trung Quốc 1977 [nguồn: Trung tâm Tài liệu
Cambodia].
Có lẽ Hà Nội thấy trước được nguy cơ cận
kề đó, lại bị quân Khmer Đỏ đồng loạt tấn công các tỉnh biên giới phía tây, nên
tháng 12 năm 1978, hơn 100,000 quân đội cộng sản Việt Nam đã tràn qua Cambodia
lật đổ chế độ Pol Pot và lập nên một chính phủ Phnom Penh ban đầu thân Việt Nam.
Và để cứu chế độ Khmer Đỏ khỏi hoàn toàn sụp đổ, Trung Quốc cũng đã mở ngay các
cuộc Chiến tranh Biên giới 1979 phía bắc Việt Nam như một áp lực trả đũa mà Đặng
Tiểu Bình đã giận dữ gọi "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt
Nam một bài
học".
Những trang sử về mối liên hệ của Trung
Quốc và chế độ Khmer Đỏ diệt chủng đã và đang bị kiểm duyệt, không chỉ bởi Bắc
Kinh mà nơi chính quốc gia nạn nhân do những lợi lộc nhỏ nhặt trước mắt. Cho dù
đó là chặng đường lịch sử đẫm máu và đen tối nhất của quốc gia Cambodia trong
Thế kỷ XX nhưng vẫn không được soi
sáng.

Hình 4: Phi trường nơi tỉnh Kampong Chhnang
cách Nam Vang hơn 90 km của Khmer Đỏ do hàng trăm kỹ sư Trung Quốc giúp xây, với
phi đạo dài 2.4 km, nhân công là hàng chục ngàn tù nhân khổ sai và phần lớn đã
bỏ mạng nơi công trường này. [nguồn: Nikkei Asian Review, August 21,
2015].

Hình 5: Cán bộ Khmer Đỏ Um Sarun đứng giữa,
cùng với các cố vấn quân sự Trung Quốc, đám cố vấn TQ cũng mặc pyjama đen cổ
quấn khăn rằn và hiện diện rất kín đáo [nguồn: Trung tâm Tài liệu
Cambodia]
Ngay chính Hun Sen, ở cương vị Thủ tướng
Cambodia cho dù không thể công khai ngăn cản việc đem ra xét xử các tội phạm
Khmer Đỏ, nhưng ông vẫn đưa ra lời cảnh báo như một hăm doạ rằng: "nếu để việc
điều tra và xét xử Khmer Đỏ đi quá xa, Cambodia sẽ có nguy cơ nội chiến." Trong
khi đó thì Om Mak, một người dân tỉnh Banteay Meanchey thì cho rằng lo ngại của
ông Hun Sen là không có cơ sở, ông ta nhận xét: "Tôi không nghĩ rằng việc mở
rộng điều tra tội ác Khmer Đỏ sẽ khơi mào cho chiến tranh. Không ai trốn trong
rừng cả, cũng không ai có đủ võ trang để gây bất ổn cho đất
nước."
Cũng dễ hiểu khi biết Hun Sen có gốc gác
từ Khmer Đỏ, sau đó mới đào ngũ sang Việt Nam năm 1977, ban đầu thân Việt Nam
nhưng nay thì đang chọn đi vào quỹ đạo Trung Quốc.
LỊCH SỬ THEO THỰC
ĐƠN
Chương Lập Phàm / Zhang Lifan một học giả cũng
là sử gia Trung Quốc, khi trả lời phỏng vấn của New York Times [March, 2015] đã
đưa ra một thuật ngữ ví von: "lịch sử theo thực đơn / history à
la carte", theo cái nghĩa nhà nước Trung Quốc chỉ muốn phổ biến tuyên truyền
những điều thấy có lợi, trong khi cố né tránh những khía cạnh tiêu cực có thể
gây chỉ trích.
(1)
Câu chuyện kể lại, khi có đoàn du khách tới
thăm Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Tuol Sleng ở thủ đô Nam Vang [Hình 6,7], trước
tiên viên hướng dẫn du lịch hỏi có ai trong đoàn tới từ Trung Quốc không, không
có ai lên tiếng hoặc giơ tay, khi ấy anh ta mới yên tâm thuyết trình về cuộc
chiến diệt chủng của Khmer Đỏ từ 1975 với 2 triệu người chết và trong đó có vai
trò của Trung
Quốc.
Sau này, anh ta giải thích thêm là nếu
có người Tàu trong đoàn du khách thì "Họ sẽ rất giận dữ khi nghe tôi nói Pol Pot
được Trung Quốc trợ giúp nên mới giết được nhiều người đến như vậy." Và họ đáp
trả là "Điều đó không có thật, hơn nữa bây giờ chúng ta là bạn,
không nhắc về quá khứ
nữa."(1)

Hình 6: Cổng vào Viện Bảo Tàng Diệt Chủng Toul
Sleng, còn có tên S-21 [trái]; tượng Pol Pot trên nền nhà trong Viện Bảo Tàng
[phải] với trên tường là vô số hình ảnh đen trắng do Khmer Đỏ chụp các nạn nhân
bị tra tấn và thảm sát nơi đây. [photo by Ngô Thế
Vinh]

Hình 7: Bản đồ đất nước Cambodia thời kỳ Khmer
Đỏ được ghép bằng những sọ người với Biển Hồ và con sông máu Tonle Sap. [photo
by Ngô Thế
Vinh].

Hình 8: Brothers in Arms; Chinese Aid to the
Khmer Rouge 1975-1979. Andrew Mertha. Cornell University Press, February
2014. (2)
Chuẩn bị kỷ niệm 70 năm kết thúc Thế
chiến Thứ II vào tháng 9, 2015 với cuộc diễn hành quân sự vĩ đại, Bắc Kinh không
quên lên án tội ác chiến tranh của quân đội Nhật Bản, và Thủ tướng Trung Quốc Lý
Khắc Cường/ Li Keqiang nói với báo giới: "Giới lãnh đạo Nhật Bản
phải nhận lãnh những trách nhiệm lịch sử về tội ác của các thế hệ
trước."
Nhưng điều trớ trêu là chính Trung Quốc
không hành xử như vậy đối với các tội ác tầy trời của chính họ trong quá khứ.
Kuni Miakabe, một nhà ngoại giao Nhật hồi hưu đã mai mỉa về chính sách nước đôi
/ double standard của Bắc Kinh mà ông gọi là "tiêu chuẩn toàn
cầu về liêm khiết trí thức / the global standard of intellectual
fairness"; đó là một mặt thì yêu cầu các quốc gia khác không
xoá bỏ lịch sử / whitewash the history nhưng chính Trung Quốc lại không muốn
nhắc tới phần trách nhiệm về cái chết của 45 triệu người do chính
sách Đại Nhẩy Vọt / Great Leap Forward của Mao
Trạch Đông, cũng như tội ác về cuộc Cách mạng Văn Hoá 1966-76 gây chết chóc và
chấn thương cho cả một thế hệ và rồi mới đây là vụ thảm sát sinh viên đòi dân
chủ ở Thiên An Môn. Và Trung Quốc đã không hề có một Viện Bảo tàng cho những
giai đoạn lịch sử như vậy."
(1)
Nhà nước Trung Quốc rõ ràng có một chính
sách "uốn nắn lịch sử" khởi đầu từ trong các trường học. Các bộ sách giáo khoa
về lịch sử đã tránh đề cập tới thời kỳ Khmer Đỏ, kể cả cuộc Chiến tranh Biên
giới 1979 do Đặng Tiểu Bình phát động để trừng phạt Việt Nam và cứu chế độ Pol
Pot cũng bị kiểm duyệt và không được nhắc tới. Chính sách kiểm duyệt lịch sử từ
sách vở tới báo chí truyền thông của Trung Quốc hữu hiệu tới nỗi đa số các sinh
viên đại học ở Trung Quốc hầu như không biết gì về cả hai sự kiện
này.
Nhìn về Việt Nam thì giới viết sử chính
thống theo tuyên giáo của đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt bảy thập niên qua
cũng tồi tệ và không hơn gì Trung Quốc. Môn sử học cũng chỉ là một công cụ chính
trị cho các đảng Cộng sản và những chế độ độc tài trên thế
giới.
HUN SEN ĐI VÀO QUỸ ĐẠO TRUNG
QUỐC
Sinh năm 1952 tại một ngôi làng nhỏ
thuộc tỉnh Kompong Cham bên bờ con sông Mekong, nhưng khai sinh sớm hơn
[4/4/1951], để đủ tuổi gia nhập Khmer Đỏ. Học vấn qua bậc tiểu học, sau đó tham
gia các phong trào tranh đấu. Có gốc là sĩ quan Khmer Đỏ, bị thương hư một mắt
khi theo Pol Pot tấn công thủ đô Phnom Penh tháng 4, 1975. Sau đó đào ngũ qua
Việt Nam trước
1979.
Khi quân CS Việt Nam tràn qua Cam Bốt,
lật đổ chính quyền Khmer Đỏ, Hun Sen được đưa lên làm Ngoại Trưởng trẻ nhất năm
27 tuổi, rồi Thủ tướng Cambodia từ tháng 1, 1985 lúc mới 33 tuổi, giữ ghế Thủ
tướng cho tới nay đã hơn 32 năm, lâu nhất của cả thế giới. [Phnom Penh Post, Jan
21, 2010]

Hình 9: Hun Sen, con người muôn mặt, là Thủ
tướng
Cambodia,
trị vì lâu năm nhất trên thế giới [nguồn:
internet]
Và nếu không có gì bất ngờ, Hun Sen sẽ
còn thống lĩnh chính trường Cam Bốt và là khuôn mặt lớn của khối ASEAN trong
hàng thập niên
nữa.
Lãnh đạo Đảng Nhân Dân Cam
Bốt, Hun Sen được giới ngoại giao và báo chí coi như một thứ “Người Hùng”
của
Cambodia.
Sẽ thiếu sót, nếu không ghi nhận ở đây,
trong thời gian làm Thủ tướng, ông Hun Sen đã nhận được khoảng hơn 10 học
vị Tiến sĩ Danh dự từ các đại học khác nhau
trên khắp thế giới, trong đó có 2 học vị Tiến sĩ của Hà Nội: một về Chính trị
học (1991), và một về khoa Giáo Dục (2007). Với từng ấy quyền lực và hào quang,
Hun Sen được quốc vương Sihanouk phong cho phẩm tước cao quý “Samdech”
[Wikipedia] và còn được mệnh danh là “Đứa Con của Đế quốc Khmer / The Son of
the Khmer
Empire”.
Năm 1987, Hun Sen từng bị Amnesty
International lên án vi phạm nhân quyền vì các vụ tra tấn tù nhân chính trị. Nổi
tiếng cai trị bằng đôi bàn tay sắt, nhưng cũng không thiếu tai tiếng về các vụ
tham nhũng về đất đai, dầu khí và các hợp đồng khai thác tài nguyên của
Cambodia. Bị các đối thủ lên án là “bù nhìn” của Hà Nội, nhưng thực tế Hun Sen
rất bản lãnh và độc lập, tuy không công khai lên tiếng chống Việt Nam nhưng đã
dần dần từng bước chọn đưa đất nước Cambodia tiến gần vào quỹ đạo của Bắc Kinh;
với dòng sự
kiện:
Tháng 11, 2010_ Thủ tướng Hun Sen, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh
ACMECS ở Nam Vang, lại một lần nữa đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của
các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng
định rằng chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu /
climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới
chuỗi những con đập thủy điện của Trung
Quốc.
Tháng 6, 2009_ Fred Pearce trong một tường trình
Environment 360 Đại học Yale cho rằng xây đập chắn ngang sông Mekong là một đòn
giáng nghiêm trọng / major blow đối với con sông Mekong dũng mãnh. Trung Quốc
đang xây hàng loạt những con đập trên khoảng 2,800 dặm khúc sông Mekong thượng
nguồn, sẽ giới hạn dòng chảy, làm mất đi chu kỳ lũ lụt hàng năm / annual flood
pulse, con sông Tonle Sap chảy ngược vào Biển Hồ, như một trong những kỳ quan
thiên nhiên của thế
giới.
Tháng 7, 2005_ Thủ tướng Hun Sen, rất sớm cách đây 12 năm,
trước khi sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, đã tỏ ra thỏa mãn với tình hình
khai thác con sông Mekong như hiện nay, theo ông chẳng có vấn đề gì phải quan
tâm. Ông công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông
Mekong, ông còn cho rằng các ý kiến chỉ trích chỉ để chứng tỏ họ chú ý tới môi
sinh, và đôi khi họ dùng đó như thứ rào cản nhằm ngăn sự hợp tác nên có giữa 6
quốc gia.
Tháng 11, 2002_ Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt
Đới Smithsonian đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với
tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông. Các bước khai thác của Trung
Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong
đang chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của
Trung
Quốc.
TAM GIÁC VÀNG BẮC KINH - NAM VANG - HÀ
NỘI
Cho đến nay cũng đã 38 năm kể từ ngày hơn 100
ngàn quân đội cộng sản Việt Nam tràn qua Cambodia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và giải
phóng đất nước này. Nhiều lãnh tụ cao cấp Khmer Đỏ đã chết trước khi bị đem ra
xét xử. Pol Pot / Anh Cả là nhân vật số 1 đã chết từ
15.04.1998.
Riêng hai ông Nuon Chea / Anh Hai và
Khieu Samphan/ Anh Ba là hai nhân vật cao cấp nhất của Khmer Đỏ còn sống đã
bị Tòa án xét xử tội ác diệt chủng ở
Cambodia / Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia
(ECCC) do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, cả hai đã bị kết án tù
chung thân từ ngày 07.08.2014.
Và rồi chỉ mới đây thôi, ngày
23.06.2017, hai ông Nuon Chea và Khieu Samphan lại được ECCC đưa ra tái xét xử
với những tội danh khác. Ông Nuon Chea 90 tuổi nguyên Thủ Tướng, do vấn đề sức
khoẻ chỉ ngồi theo dõi phiên toà trước màn hình trong nhà giam, và qua luật sư
của mình, ông cho biết chỉ coi phiên toà như một trò trình diễn "show
trial".
Riêng ông Khieu Samphan 85 tuổi, có học
vị tiến sĩ Đại học Paris, được coi như lý thuyết gia, nguyên Chủ tịch nhà nước
Campuchia Dân chủ / Khmer Đỏ thì có mặt và đã có lời nói cuối trước toà, ông đã
hoàn toàn bác bỏ cáo buộc "tội ác chống nhân loại và diệt
chủng."

Hình 10: Khieu Samphan, nguyên Chủ tịch nhà
nước Khmer Đỏ phát biểu tại phiên toà ở Nam Vang ngày 23.06.2017: Ông hoàn toàn
bác bỏ cáo buộc "tội chống nhân loại và diệt chủng" và khẳng định nói đó là
những lời nguỵ tạo của Việt Nam nhằm xâm lược Cambodia. [nguồn: AFP
photo]
Ông Khieu Samphan đã giận dữ khẳng định
đó là những lời vu cáo nguỵ tạo của Việt Nam nhằm xâm lược Cambodia, rồi ông đổ
hết trách nhiệm cho Việt Nam trong trong tấn thảm kịch 2 triệu người dân Khmer
chết bằng các nhục hình như bỏ đói, lao động cưỡng bức, tra tấn và cả giết
chóc.
Điều rất trớ trêu và đáng nói ở đây là
do mối thù hận lịch sử, sẵn có tinh thần bài Việt, lại luôn luôn được kích động
bởi khẩu hiệu: "Việt Nam là kẻ thù truyền
kiếp" nên không ít người Cambodia may mắn sống sót và cả thế hệ
trẻ sinh sau thời kỳ Khmer Đỏ, khi nghe phát biểu của ông Khieu Samphan họ cũng
hoang mang, và nếu cứ bị tiếp tục bị tuyên truyền nhồi sọ, rồi ra họ có thể dễ
dàng cả tin về điều
này.
CÙNG NHAU GIẢI LỜI
NGUYỀN
Khó mà kiếm được người Miên nào nói tốt
về người Việt đang sống trên đất nước của họ. Một thành viên nhóm bảo vệ nhân
quyền ở Nam Vang đã nói với ký giả báo Far Eastern Economic Review (FEER 1994):
nếu có được quyền lựa chọn thì đa số người Khmer đều muốn tống xuất tất cả người
Việt ra khỏi Cambodia. Chống Việt Nam bằng bất cứ luận điệu nào cho dù đúng hay
sai vẫn luôn luôn là một chiêu bài rất ăn khách và dễ dàng được đa số người Miên
cả tin và lắng nghe.
Không lẽ bước sang Thế kỷ XXI một cách
rất vô lý Việt Nam lại phải đưa vai ra gánh phần trách nhiệm về tội ác mà kẻ
thực sự chủ mưu là Trung Quốc thì lại dấu mặt. Để giải toả mối oan khiên đó,
chưa bao giờ khẩn thiết như lúc này, phải có một giới sử gia chân chính viết nên
những trang sử về thời kỳ Khmer Đỏ một cách công tâm và minh bạch để trả lại tất
cả sự thật cho lịch
sử.
Trong mấy thế kỷ qua, quá khứ hai dân
tộc Khmer và Việt Nam đã có những tang thương đổ vỡ nhưng họ lại phải cùng sống
với nhau trên một vùng đất định mệnh. Và những thù hận trong quá khứ vẫn âm ỉ
đến mức đã trở thành Một Lời Nguyền rất bất hạnh cho cả hai phía. Đã đến lúc
phải cùng nhau giải lời nguyền
ấy.
Hiện tại, cả hai dân tộc cùng rất nghèo,
cùng ở cuối nguồn con sông Mekong, đang cùng là nạn nhân của một trận chiến môi
sinh thế kỷ: do chuỗi những con đập thượng nguồn từ Trung Quốc xuống tới Lào, do
kế hoạch vĩ mô đổi dòng lấy nước từ con sông Mekong của Thái Lan, rồi nạn ô
nhiễm do khai thác khoáng sản bừa bãi, cộng thêm với tác động của thay đổi khí
hậu đưa tới lũ lụt và hạn hán. Hậu quả sẽ là hai vùng châu thổ Tonle Sap và châu
thổ Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trước nguy cơ chết
dần.
Gần đây thôi, trong một phạm vi nhỏ hẹp
nhưng tích cực là các tổ chức môi sinh Việt Nam như Việt Ecology Foundation,
Vietnam River Network đã có những bước đầu nối kết với 5 tổ chức môi sinh NGOs/
phi chính phủ của Cambodia, liên kết dưới chung một tên River Coalition in
Cambodia (RCC), và trong bối cảnh mở rộng một hợp tác vùng: Save the Mekong
Coalition (StM). Từ những bước khởi đầu ấy, hai dân tộc Khmer và Việt Nam sẽ
cùng chia xẻ trách nhiệm và hướng tới một tương lai thịnh vượng chung. Đó cũng
chính là nỗ lực hàn gắn vết thương lịch sử giữa hai quốc gia, như một hoá giải
Lời Nguyền giữa hai dân tộc Cambodia và Việt
Nam.
NGÔ THẾ
VINH
California
08.07.2017
Tham
Khảo:
1) Dan Levin, “China Is Urged to Confront Its Own
History,” The New York Times (March 31,
2015).
2) Andrew Mertha, Brothers in
Arms: Chinese Aid to the Khmer Rouge, 1975-1979(Ithaca, NY : Cornell Univ.
Press,
2014).
3) Luke Hunt, “What Was China’s Khmer Rouge
Role?” The Diplomat (December 17,
2011).
4) David Chandler, A History of
Cambodia, 4th ed., updated (Boulder, CO: Westview
Press,
2009).
5) Ngô Thế Vinh, "Vực Dậy Từ Tro Than, Đi ra từ
những Cánh Đồng Chết" Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, (Văn Nghệ Mới
2007).
EmoticonEmoticon