Những ngày này có nhiều bài viết
mang tính hồi ức của những "boat people". Một trong những bài đó là của tác giả
Trần Mộng Tú (chị ấy không phải là "thuyền nhân") nhân một chuyến về thăm lại
những trại tị nạn mà tôi nhắc trong bài hồi ức của tôi. Bài viết gợi lại rất
nhiều sự kiện mà tôi quên kể trong bài của tôi. Vì bài hơi dài, nên tôi chỉ
trích những đoạn quan trọng. Tôi phải cảnh báo trước là có nhiều đoạn rất cảm
xúc. NVT
======
http://www.diendantheky.net/2017/04/tran-mong-tu-nuoc-mat-nuoc-bien-va.html
Chiều hôm ngày 30 tháng 3,
chúng tôi, 56 người, gặp nhau ở một phi trường nhỏ trong một tỉnh nhỏ, có tên là
Hatyai, của nước Thái Lan. Trong 56 người, chỉ có 4 người: vợ chồng tôi, Trùng
Dương, anh Michael ở Texas làm cho Đài Truyền hình Saigon-Houston không phải
thuyền nhân. Số đông thuyền nhân tham gia là các anh chị đến từ Úc châu và rất
nhiều người đã từng đi Songkla và Bidong hai, ba lần. Anh chị Dương Phục và Vũ
Thanh Thủy cũng là thuyền nhân nhưng đây là chuyến đi đầu tiên của anh chị đến
đảo Kra. Cô Ngọc Ân, phóng viên của Đài Little Saigon-Radio, Kim Hoàng và Chấn
Hồng của Đài VietFace TV từ Úc cũng có mặt trong chuyến đi này.
Chúng tôi may mắn có ba linh
mục, cha Nguyễn Hùng đến từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn
là bác sĩ y khoa) đến từ Houston, hòa thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston,
thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến từ Úc.
Trong nhóm còn một bác sĩ trẻ
nữa là Kenneth Nguyễn đến từ California.
Trại tỵ nạn Songkla
Chuyến hành hương đầu tiên
của chúng tôi, bắt đầu trở lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới
địa điểm đó khoảng một tiếng lái xe.
Xe đi ra ngoại ô qua những
vùng trồng mía, xoài và rất nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc
thủ công nghệ. Nhà cửa giống hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng
nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối,
cây hoa sứ. Cũng những con chó trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống
nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng
tôi trở về quê xưa ngày cũ.
Chiếc xe ca chở hơn 50 người
đậu lại, biển xanh trước mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao
chỉ tay về phía bên phải.
Cứ đi vào đây, hướng này đúng
rồi. Sẽ thấy cái giếng.
Cái giếng mấy năm trước tôi
trở lại còn thấy, bây giờ đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã
chôn mất miệng giếng, nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền
nhân chờ được định cư ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy
dương hơn là cây đa. Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê
nhà).
Vùng bờ biển, nền lều trại
dựng ngày trước đã được dọn sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa,
chạy song song với biển đã như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó,
vẫn thấy dấu thờ cúng chưa cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô,
có nhang đèn vứt lăn lóc, những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái
gẫy, cái bể.
Tác giả và miếu thờ ở Songkhla.
Ba linh mục và nhà sư kêu gọi
mọi người tụ họp lại cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.
Nhang được thắp lên, nước mắt
thi nhau ràn rụa. Tên Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho
người chết, kẻ lưu vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi
người hát theo.
Giữa buổi trưa nắng chang
chang, không một ngọn gió, tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như
muốn át tiếng sóng biển đang đập vào bờ:
Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong
(Nam Lộc)
Mọi người xúm lại chụp hình.
Các anh, chị làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình. Có người đi
tách ra riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ
niệm.
Bao nhiêu người đã được định
cư ở nơi êm ấm? Bao nhiêu xác đã trôi giạt vào bãi bờ này?
Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan
nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi
hờn.
Tôi cúi xuống vốc lên một nắm
cát, nhặt một chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp chân cao, vừa
đi vừa lau nước mắt.
Nơi đây cũng đã dánh dấu bao
cuộc tình tỵ nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau rồi lại phải
buông nhau ra vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau, hay người đi
người vẫn ở lại ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ tay ai vẽ
xuống.
Chúng tôi rời bãi này để tới
một bờ khác.
Tha Sala và 11 cô gái Việt
Trưởng nhóm, anh Hùng Lê cất
tiếng:
Bây giờ Hùng đưa các cô chú
đến thăm đền thờ Mười Một Cô.
Đó là chuyện 11 cô gái Việt,
không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển. Xác các cô trôi
tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào chôn cất. Ai
nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.
Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên
Tha Sala không chỉ vớt Mười
Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi hai ba, trôi
năm bẩy, giạt vào bờ.
Người đàn bà Thái khoảng 60
tuổi, gia đình hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những vong linh này.
Mỗi ngày bà mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh và mấy cây
nhang.
Đây là câu chuyện của bà: khi
gia đình bà tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất dựng nhà,
chạm phải nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền của người
vượt biển bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn tuổi hơn
ra biển mỗi lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các cô con gái
Việt này. Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền nhân và 11
cô gái. Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng, biển xâm
thực và bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn lại một
mảnh ván dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi
ngày.
Người Việt bị người Thái
giết, thì cũng chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt. Có phải đó là
sự đền bù của đất trời không?
Sau Tha Sala, chúng tôi được
đưa tới một địa điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.
Nơi dừng chân là chùa Wat
Samphreak, trong chùa còn có một ngôi trường tiểu học. Tối hôm đó chúng tôi được
ngủ lại trong chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình an trong chánh
điện, dưới chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi hay vì câu
chuyện thương tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của các cô khoảng
từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước
vọng!
Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.
Nước mắt tôi ứa ra, trái tim
tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho dân tộc tôi
quá đỗi! Chúa ở đâu? Phật ở đâu?
Lên thuyền ra đảo Koh Kra
Bốn giờ sáng ngày mồng 1
tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si Thammarat, cách đảo
Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.
Tại bãi biển.
Trên bãi biển tiếng gọi nhau
khe khẽ, tiếng chân trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo
lên những chiếc thuyền tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy
bằng máy đuôi tôm.
Sao đi sớm
thế?
Giờ này biển êm, không có
sóng
Chạy bao lâu thì
tới?
Khoảng hơn 3
tiếng
Ngồi sát vào nhau, tám người
một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Có tiếng nói khẽ cất
lên:
Hồi đi vượt biên, chúng em đi
bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra ngoài có thuyền lớn hơn
đón.
Nhưng hồi đó phải ngậm miệng,
không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ bão biển, sợ hải tặc và
chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế này.
Tôi ngồi co rúm người lại,
thuyền đang chạy, nước biển bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi.
Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu
hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ,
cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa
ra tới biển.
Trời dần sáng. Lên tới bãi
san hô của đảo Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không có cát, chỉ toàn những
mảnh san hô, nên không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền
nhân bị hải tặc nhốt giam ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục
cùng nhóm gần 200 người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang
hình người đã hành hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của
một đầu óc bình thường.
Hàng ngàn người đã bị hải tặc
giam cầm trên đảo này, con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu?
Bao nhiêu phụ nữ đã bị hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh
trai, bất lực và bất hạnh trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết
con số chính xác này.
Những cô gái nạn nhân này
chịu nhiều khổ hạnh khác nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay
đã chết. Nếu sống, họ có còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay
không? Hay họ tự coi như cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận
sống hai đời trong một kiếp.
Có người khi được cứu đã mang
thai nhưng họ can đảm không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương
thịt họ. Họ mang con đến một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp
những người thân và tự nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi
thử thách mà định mệnh đã đặt vào họ.
Có cô gái chọn nhảy xuống
biển chết thay vì bị hải tặc hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt
trong một khe đá, cô đói, khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21
ngày. Khi cứu được cô ra, người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da
thịt.
Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt
nào khóc rửa được những vết thương này.
Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.
Còn bao nhiêu câu chuyện nữa
chưa được kể ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức đau thương
ấy. Họ im lặng, lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những tai nạn khốc
liệt cho cả tâm hồn và thể xác ấy.
Tác giả Dương Phục và Vũ
Thanh Thủy đã ghi lại trong hồi ký cả ngàn trang “Tình yêu, Ngục tù và Vượt
biển” của anh chị một phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh
mà Việt Nam và Thái Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần
trách nhiệm và liêm sỉ của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né
tránh không muốn mở ra, nhìn lại.
Mỗi người bắt tay vào mỗi
việc. Căng lều tập thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật, tượng Đức
Mẹ, Thánh Giá. Chúa thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng này và vật
liệu cần thiết đã được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước mấy hôm).
Người lo mắc võng cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân cây này
sang thân cây kia. Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.
Chúng tôi xếp ra từ trong hộp
những tấm mộ bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc lời tưởng
niệm (được anh trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn những bia
này chung quanh một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.
Buổi trưa nắng qua nhanh. Mỗi
người được ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được chuyền tay nhau
vác lên đồi tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo lên thuyền trở
về đất liền mua thêm vật dụng.
Công việc dựng tượng mới làm
được một phần.
Buổi chiều, mọi người còn
đang tất bật thì có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn năm
người lính Thái có vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện
(sống ở Thái) được gọi ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi chia
ra làm hai hàng, bên nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư Thái
(hiện tu hành trên đảo) xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng và
thăm mộ thân nhân. Đất Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu,
thờ cúng, nên người dân Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông
hành của mỗi người lên ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau
khi nói chuyện với các nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời
bãi.
Khi họ đi rồi, một nỗi hoang
mang dậy lên trong lòng những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể biết được
hải tặc có thông đồng với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta nhờ có các
sư và hiện mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.
Buổi chiều, cơn mưa to ập
xuống, dù lều được dựng dưới những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm chúng
tôi. Khổ nhất là công việc dựng tượng và gắn bia cho người đã chết không tiến
hành được, cả những tấm ghi dòng tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng. Nhang đèn,
gạch, xi măng, phải che chắn lại. Đêm “Hoa đăng tưởng niệm” như dự tính đã không
thành.
Buổi tối vẫn còn mưa. Trong
tình cảnh, dưới lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước chảy vào
thành từng vũng, quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo nhau ra
lều tập thể hát dưới những giọt mưa.
Tiếng hát hòa đồng với tiếng
mưa. Trong ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho nhau nghe,
cho hồn ma bóng quế cùng nghe.
Có hay không! Những hồn ma
bóng quế đang rủ nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương của
mình?
Đêm vẫn rào rào đổ mưa xuống,
nhóm 8 người chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa trải dưới đất,
nửa căng trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm sát ngoài cùng
phía bên phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục và ngoài cùng
là Cha Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người nằm ngoài bìa
lều, ướt như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.
Chắc chắn những nhóm khác,
trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng tôi. Nhưng
may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để làm lễ liên
tôn cho các vong linh trên đảo.
Lễ cầu siêu trên đảo Koh Kra.
Các vị chủ tế cùng mọi người
cùng quay lưng ra biển, mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn
100 thuyền nhân được biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được
chôn vùi từ những ngày tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào
đây.
Chương trình hành lễ được cha
Tâm đề nghị, bắt đầu làm lễ với các sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu
tiên bằng tiếng Phạn, sau đó đến hòa thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là cha
Hùng, cha Tâm cha Hương chia nhau dâng lời nguyện.
Vừa xong hai phần về Phật
giáo, tiếng các cha bên Công giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào
lều.
Xin chấm dứt và sửa soạn ra
về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.
Mọi người hấp tấp đứng dậy
chạy ra khỏi lều để thu dọn hành lý, riêng các cha, hòa thượng và những người
Công giáo vẫn ở lại.
Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã
nghẹn ngào:
Giữa biển khơi lồng lộng
gió bốn phương
Chúng tôi những người
sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương, cùng nhau về đây
chiêu hồn lưu xứ.
Xin những đấng tối cao mở
lòng đón nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh những oan hồn, uổng
tử.
Xin hãy mang hồn vào giấc
ngủ ấm yên
Vòng tay Đức Mẹ, vòng tay
Phật Bà xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô ngàn máu
lệ.
Chúng tôi cúi đầu gửi
lời kinh tiếng kệ.
Tiếng chuông tiếng mõ gọi
hồn về.
Giọng Cha trầm trầm, bi
thương, nghẹn ngào, cha đọc hết bốn trang bài “Văn tế muộn
màng”.
Rồi các cha thay nhau đọc tên
từng người trên những mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn
bình tâm với những dòng kinh nguyện.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn
đời
(Kinh Hòa Bình-Thánh Francis)
Chiếc lều cuối cùng được kéo
xuống, gấp lại, gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi lấy tay quẹt
trên giọt nước, nếm thấy mặn như những giọt lệ.
Những chiếc thuyền tam bản,
không mui, rẽ sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển bắn tung
từng đợt lên mặt mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn đảo Koh
Kra chìm dần vào những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm vụ chưa
hoàn tất. Chúng tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự trong
lòng chúng tôi cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng chúng
tôi, hòn đảo như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh không vọng
được lên trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người sống một
đường vạch dài và đen chia đôi.
Bidong và những ngôi mộ tập thể ở Mã Lai
Xe ca đi từ Thái Lan sang Mã
Lai, mất 8 tiếng, qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục nhập cảnh.
Chúng tôi tới Mã Lai thì đã trời chiều.
Phụ nữ ở đây đa số mặc quốc
phục nhiều màu sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu quấn khác nhau
chung quanh khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt thân thiện,
hay cười của họ. Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn mình kín mít
trong tấm vải đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình. Đàn ông cũng
thân thiện không kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình cho bạn nghe,
về việc họ vẫn cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.
Mã Lai là nước đã nhận gần
300 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên 1975-1995. Những thuyền nhân
đi trong nhóm kể lại: nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính Mã ban
đêm có vào trại kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp được.
Nhưng lính Mã không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt
mình.
Mã Lai cũng là nơi có nhiều
xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất có nhiều mộ tập thể.
Những người bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị
lật như thường, người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước
mặt mà không làm gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển
gần vào đến bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ
xoáy mà không biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút
thuyền vào, thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều
chiếc thuyền đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.
Viếng ngôi mộ tập thể đầu tiên Ở
Kelanta.
Mã cũng là quốc gia duy nhất
có nhiều mộ tập thể của thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần
bờ.
Ngôi mộ tập thể số 1 chúng
tôi tới ở Balai Bachock thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3
em nhỏ.
Lần đầu tiên trong đời người,
đứng trước một ngôi mộ tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với
những cái tên Việt Nam, tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau
trong ruột, nước mắt ràn rụa. Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “thuyền nhân” chỉ
nhìn “hình thuyền nhân”, cái thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi
như vết xước ngoài da. Phải tới đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó
mới hiểu được tình người trong một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ
“Đồng Bào” cùng một cội nguồn dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân,
thương nước mình quá đỗi! Vì đâu, vì ai, vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết
khổ, đến thế này! Cá nhân mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó
không?
Nhang, nến, thắp lên, lời
kinh hòa đồng, Phật, Chúa có nhìn xuống chúng sinh không?
Tôi nghĩ tới lời sư Huyền
Việt nói với tôi: Nghiệp lực làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong
cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục xảy ra.
Ngôi mộ thứ hai tại Cherang
Ruku, cách nơi này không xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta
cái cảm tưởng đây là một cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ
chôn 123 người, sau nhận thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng
là 128 người. Những ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời
kể của bà vợ ông Alcoh Wong Yahao (sẽ nói đến vị ân nhân này
sau):
“Chúng tôi xếp xác từng lớp,
không phân biệt nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một lớp khăn
liệm, rồi lại tiếp một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một lớp ván
ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.
Ngôi mộ thứ hai này và ngôi
mộ thứ nhất với 46 người, cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau
trên chiếc tàu khởi hành từ Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng
12, tới gần biển Mã Lai ngày 4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên
thuyền là 300 người.
Mộ tổng cộng 128 người.
Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện
Chúa, Phật, cầu xin các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi.
Chúng tôi, những phụ nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.
Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi
người cầm nhang đi chung quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo
những giọt nước mắt.
Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào trong lệ không tan.
Mắt nào không lệ chảy.
Đừng khóc vội, tôi xin kể một
câu chuyện liên quan đến nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.
Trong mấy ngày hôm sau khi
chúng tôi đi thăm những nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất
hiện trong đoàn một thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm
tay tôi dắt bước qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ
ông bà ngoại và các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với
nhóm nên em đến chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một
mình.
Tại sao mẹ không đi với
con?
Mẹ sợ, mẹ không dám nhìn
lại.
Em nói tiếng Việt rất giỏi,
rất lễ phép, chứng tỏ em được lớn lên trong một gia đình tốt. Em
kể:
Gia đình của mẹ con, tất cả
18 người đi trên chiếc tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì
của con lên 10. Khi tàu lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập
vào cửa kính thuyền, hai chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không
biết bơi, ngất xỉu. Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13
người, còn lại 5 người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ
hàng.
Em thơ dại sao mà em may mắn
Cả một thuyền chết hết chỉ còn em
Sau đó hai chị em được một
gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn gia đình đó
ở Orange County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai cô bé đó đã
vẫn giữ và nói tiếng Việt. (khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng
Việt).
Hai chị em cô bé này quả thật
trong bất hạnh có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học tiếng Việt và
lớn lên với cộng đồng Việt.
Nhìn cậu thanh niên khôi ngô,
đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một gia đình có
hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững nhìn cậu,
nghe cậu kể lại câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình dung ra mẹ
và dì của cậu như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao và sắc mà
không hề xây xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.
Tôi nghĩ đến đôi ngày vừa
qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình lên trên tên
ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ
mình.
Một mộ bia tập thể của người Việt trên đất Mã
Lai.
Người chủ của những ngôi mộ thuyền nhân
Một khu nghĩa trang của người
Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai
của người mẹ (Người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra
đi). Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B, C, D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân
được chôn ở đây. Khu B, C, D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi
thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên
tới bảy người, mười người.
Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền
nhân ở Úc đã tổ chức tới đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng
thân nhân đem đi không? Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở
thành phố này, không muốn cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý
do:
Thứ nhất, đã chết ở Mã là
người Mã.
Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã
thành mộ bạn.
Thứ ba, nếu người Việt ai
cũng cải táng thì đâu còn ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần
du khách).
Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh
Thánh ngay trong nghĩa trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng
hát: Chúa nhân từ xin lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa
xin dủ thương, ban xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.
Hình cha Tâm dâng lễ.
Nắng rát da, trời cao vời
vợi, những hạt nước mắt rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy
hát.
Hòa thượng Huyền Việt đã rời
Thái Lan sau khi ở Koh Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật giáo mỗi
lần tới các phần mộ, anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ
nhàng, ấm áp, bài kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích
một đoạn:
Cầu Thượng đế từ bi hỉ xả.
Cho linh hồn ổn thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ
mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức Thần Minh phất phưởng tràng
phan. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an nhàn hưởng
vui…
Sau lễ chúng tôi đi thắp
nhang trên các ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay thuyền
nhân. Nghi thức hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong nhóm mua
ngay tại địa phương nên mua được rất nhiều (theo thống kê năm 2010 Mã Lai có
19.8 % theo đạo Phật).
Chúng tôi hóa vàng xong thì
xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm
giới thiệu đó là bà Alice
Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần như là hầu hết những xác
thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.
Chân dung ông Wong và Bia Công Đức.
Ông chính là người đã chôn
cất những ngôi mộ tập thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi
gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East
Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc
theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với
mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều
nhất.
Chân dung ông Wong và Bia Công Đức.
Ông để hết thời gian của mình
chỉ để lo cho những cái xác của thuyền nhân Việt Nam trôi giạt vào vùng bãi biển
Mã Lai, gần nơi ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong
được nhìn thấy vào ngày 23 tháng 11 năm 1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được
lên bờ. Ông nhìn thấy những khuôn mặt hốc hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng.
(về sau ông được Hội Hồng Nguyệt Red Cresent cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật
trong khi được hướng dẫn vào bờ ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị
chết đuối).
Ông và những người bạn của
ông ngoài việc chôn cất, còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên
đất Mã đem về gần nhau.
Những nấm mộ thuyền nhân tập
thể được nhìn như “mồ vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là
“chủ” những nấm mồ này.
Cho tới khi ông mất, năm 2006
trước đó một tuần ông vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will
follow you forever”.
Nói theo nhà Phật, kiếp trước
ông có nợ người Việt Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền
kiếp?
Tấm lòng của ông Wong đối với
thuyền nhân từ năm đầu tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137
người kéo vào vùng vịnh Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm
dài.
Đảo Bidong và những khu mộ
Chúng tôi cũng tới đảo Bidong
bằng thuyền. Thuyền này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng
20 phút. Đi giữa trưa nắng gắt.
Từ năm 1975- 1991 đã có
250,000 thuyền nhân sống sót tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo
lãnh có thể ở trên đảo từ hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh
chết, có người tự tử. Họ được mang lên đỉnh đảo chôn cất.
Mộ chia ra từng khu A, B, C…
Khu cho trẻ em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi mộ. Chúng tôi
kéo nhau lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo vừa phạt cây
rẽ lối. Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ) Thật ra số
mộ ở đây trên con số 200.
Đồi Tôn Giáo nơi trước đây có
nhà thờ Công giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị phá, vừa xụp đổ
theo thời gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những tượng Phật,
tượng Đức Mẹ đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là mất đầu thì
không còn linh thiêng nữa). Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên tường mà
thôi.
Tôi và Thái hai chị em đi
lang thang chung quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng trên cao
nhìn mông lung bao quát bãi cát dưới chân đồi.
Nơi đây bao nhiêu người dân
Việt của tôi giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn hy vọng sẽ được
chuyển tới một quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho con,cháu hay chính
bản thân mình? Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập bềnh giạt vào bờ?
Bao nhiêu cảnh chia ly của những mối tình vừa nhận được sau những đau thương mất
mát? Bao cảnh đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không sống được phải bỏ đi?
Bao nhiêu người đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng, trong tuyệt vọng
trước khi được rời nơi này?
Biển dưới kia đang ập vào
từng đợc sóng, nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha trong muối
đại dương?
Biển phải làm gì để giữ mãi
được những giọt lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng của một
dân tộc luôn luôn “Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên chính đất
nước mình.
Chúng tôi xuống đồi để sửa
soạn quay về đất liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một cánh bướm đen
thật lớn từ trên đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một thoáng rùng
mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng mình. “Thôi
nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay”. Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước mắt. Cánh
bướm bay mất hút lên đồi.
Sau một đêm mắc võng, chùm
chăn (cho khỏi muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất liền, tiếp
tục cuộc hành trình tìm mộ thuyền nhân.
Rải rác mộ thuyền nhân dọc đường
Trên đường sang Kuala Lumpur,
trong tỉnh Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển trước mặt nên
khi xác thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi họ vớt được 1
xác, khi được 2, 3, khi được 5, 7. Có khi cả trên 10 xác vào một
lúc.
Nghĩa trang thứ nhất lối vào
có đền thờ với hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền nhân, trong đó
38 mộ có tên. Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn, chôn trên 100
người, được khắc chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân xây ngày 23
tháng 3 năm 2007.
Những ngôi mộ trong khu thứ
hai được đặt trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công giáo St.Thomas trông
coi. Những thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi thánh đường của:
Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Còn được gọi là Migrants
Cemetery.
Những linh hồn này thật được
chúc phúc an ủi biết bao!
Nhang được thắp lên, lời kinh
được cất lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời xuống dự
tiệc bi ai của nhân loại.
Viết tới đây. Tôi tưởng tượng
ra, tôi là người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã Lai, mỗi sáng trở
dậy nghe tiếng gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: ra vớt xác thuyền nhân Việt
đang giạt vào bờ. Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi cùng nhau tẩm
liệm, chôn cất, có khi lập miếu thờ.
Tôi tưởng tượng ra trong
những cái xác bất hạnh đó, một cái xác của chính mình.
Những cái xác của đồng bào
mình (hay của chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót thương,
được ghi lại in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những người Việt
về tìm lại.
Chôn cất cả trăm, ngàn, nấm
mộ không phải là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo được. Theo thời
gian, mưa nắng những ngôi mộ không tồn tại được.
May mắn thay Văn Khố
Thuyền Nhân của người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập 2004), đã tới Mã
Lai, Thái Lan, Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ này. (theo VKTN -
Trong vùng Đông Nam Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá
nhân).
Tôi đọc tên tôi
Hội Hồng Nguyệt (Malaysian
Red Cresent Societ - Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn (200.000) hồ
sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong nhóm chúng tôi
đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ òa vỡ ra cùng
một lúc tiếng cười và giọt lệ:
Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay
Khi chúng tôi tới viếng Hội,
câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman, Tổng Thư ký Hội Hồng Nguyệt
là: “Chúng tôi không cần biết anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ
một con người”. Nghe mà ứa nước mắt.
Ông Misnan, nhân viên điều
hành của Hội, nói được vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông
hát cho chúng tôi nghe bằng tiếng Việt, bài hát “Bài tình ca cho em” của Vũ
Thành An thật hay. Hay một cách bất ngờ!
Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng
Trời cũng ban phát xuống những thiên thần cứu trợ.
Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta
có rất nhiều những trang sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của
tù cải tạo, của người Quốc gia chết cho Tự Do là một trang sử mới được cộng
vào.
Tất cả con dân Việt đều phải
học sử Việt.
Nhân dịp gần đến ngày 30/4, nhiều người kể chuyện xưa, tôi cũng có vài chuyện buồn vui để chia sẻ. Tôi sẽ chia sẻ cùng các bạn những ngày đầu mình bước lên đất Thái. Tôi nhớ đến đâu kể đến đó. Chuyện đã lâu, nên có thể có vài chi tiết (tên địa phương) không chính xác. Câu chuyện này thật ra đã được viết ra khá lâu, nhưng mấy tháng nay gặp bạn bè nhắc lại chuyện cũ, nên tôi nhớ lại một vài chi tiết và đưa vào cho đầy đủ. Có thể xem đây là một bản "updated" của một câu chuyện tiêu biểu về hành trình tị nạn.
Còn anh Ba Hà Nội thì ngược lại, anh kể chuyện ngoài Bắc. Anh Ba HN không biết tiếng Anh, nhưng biết chút tiếng Pháp. Anh là người rất vui tính, ăn nói lưu loát (dân kí giả mà), biết rất nhiều câu chuyện về các vị cầm quyền chóp bu ngoài Bắc. Ngay từ thời đó, anh đã cho biết ông Hồ có vợ mà chẳng ai tin anh! Anh cũng có đề cập đến cái chết của NTX, nhưng lúc đó ai cũng nghĩ anh ta xạo, chẳng ai tin. Nhưng sau này tôi đọc qua hồi kí của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên mới thấy những câu chuyện của anh kể rất ăn khớp. Hóa ra, những gì ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên viết không phải là mới đối với giới trí thức Hà Nội. Thỉnh thoảng chú Ba TT quay sang anh Ba HN nói như nửa đùa nửa thật "Thằng này nó là Việt cộng Bắc Việt, nhưng nó nói tao nghe rất được."
Nhân dịp gần đến ngày 30/4, nhiều người kể chuyện xưa, tôi cũng có vài chuyện buồn vui để chia sẻ. Tôi sẽ chia sẻ cùng các bạn những ngày đầu mình bước lên đất Thái. Tôi nhớ đến đâu kể đến đó. Chuyện đã lâu, nên có thể có vài chi tiết (tên địa phương) không chính xác. Câu chuyện này thật ra đã được viết ra khá lâu, nhưng mấy tháng nay gặp bạn bè nhắc lại chuyện cũ, nên tôi nhớ lại một vài chi tiết và đưa vào cho đầy đủ. Có thể xem đây là một bản "updated" của một câu chuyện tiêu biểu về hành trình tị nạn.
Làng
chài
Budi
Một
ngày cuối tháng 2 năm 1981, một chếc ghe đi sông chở 23 người từ Việt Nam ghé bờ
biển Budi ở miền Nam Thái Lan. Budi là một làng chài, giáp ranh giới với Mã Lai.
Như vậy, sau 3 ngày và 3 đêm, chiếc ghe từ Rạch Giá, không có la bàn, đã rong
rủi sang tận miền Nam Thái Lan. Phải nói sự sóng sót là một phép lạ. Đó cũng là
thời điểm khởi đầu của một hành trình tị nạn của tôi, một cái "mốc" lịch sử
không bao giờ phai nhòa trong kí
ức.
Một chiếc thuyền chở
người tị nạn tiêu biểu thời thập niên 1980s. Những chiếc ghe đi sông như thế này
mà ra biển và đi suốt 1 tuần! Có tháng, có hàng chục chiếc vỏ vọt (tắc ráng)
chạy thẳng từ Rạch Giá sang tận Thái Lan. Đó là những người may mắn sống sót, vì
với thuyền ghe như thế này, chỉ một cơn sóng là tất cả đều chết. Nguồn trên mạng
(lâu quá không còn địa chỉ).
Khi
chúng tôi lên bờ, dân làng ở đây chạy ra xem, nhưng họ không biết làm gì với
chúng tôi. Ghe chúng tôi là tốp người Việt đầu tiên đến cái làng chài này. Bất
đồng ngôn ngữ, nên chỉ nói bằng ngôn ngữ cơ thể, ánh mắt và nụ cười. Khi ghe
chúng tôi cập bờ thì trong ghe vẫn còn nhiều lương thực, nào là cơm khô, đường,
muối, mấy thùng nước uống. Chúng tôi không biết làm gì với mấy thứ này, nên cho
hết những người dân làng đến nơi. Có người hỏi xin 3 cái máy dầu vẫn còn rất
tốt, chúng tôi cũng cho luôn. Đã lên bờ tự do thì cần mấy thứ này nữa, chúng tôi
nghĩ vậy nên hễ ai xin cái gì là cho hết. Nghĩ lại dân tị nạn mà hào phóng ghê!
Nhưng chính nhờ nghĩa cử hào phóng đó mà chúng tôi tạo được cảm tình ở người địa
phương.
Người
địa phương thì đa số vận sarong, rất tiêu biểu ở người Thái Lan. Nhìn qua ánh
mắt và lối sống, họ là những người rất hiền lành và chất phác. Không thấy ai lợi
dụng chúng tôi. Sau này tôi mới biết đây là vùng biên giới Thái Lan - Mã Lai,
rất nhiều người Hồi Giáo ở đây. Dạo đó, tôi không rõ những người mình gặp là
Phật Giáo hay Hồi Giáo, nhưng thời đó chúng tôi chẳng quan tâm; điều quan trọng
nhất là đến bến bờ tự do, và đó là điều may mắn nhất trên đời. Tôi đoán là họ là
tín đồ Hồi Giáo, vì họ không ăn thịt heo. Họ cũng không ăn thịt gà chết, dù con
gà mới chết có vài phút! Do đó, mỗi khi có gà chết là họ đem đến cho chúng tôi.
Thành ra, tuy là dân tị nạn, nhưng thỉnh thoảng cũng có những bữa ăn thịnh
soạn.
Đây là một tấm bia tưởng
nhớ những người tị nạn chết trên đường vượt biên. Ở nhiều đảo thuộc các nước
Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, có nhiều tấm bia do những mạnh thường
quân ở nước ngoài dựng lên để ghi nhớ những người xấu số. Có ước tính khoảng
200,000 đến 400,000 người Việt bỏ mình trên biển vào những năm sau 1975. Đó là
một con số tử vong cao nhất trong lịch sử thời bình của Việt
Nam.
Sau
khi cho đồ trên ghe, có người chạy đi báo cho cảnh sát. Khoảng vài phút sau thì
một viên cảnh sát lái xe "pick-up" đến nơi. Anh cảnh sát này biết chút tiếng
Anh, tuy không tốt mấy, nhưng đủ để biết chúng tôi là người Việt Nam. Anh ta gọi
điện thoại một hồi thì thấy thêm vài chiếc xe pick-up khác đến cùng khoảng 5
viên cảnh sát. Họ bàn với nhau một lúc, rồi bảo chúng tôi tạm ở đây. Họ chỉ
chúng tôi đến một cái nền xi măng trống và cũ kĩ, nguyên là nơi để xe hơi, và cứ
ở đó trong khi họ tìm cách ... xử lí chúng tôi. Chúng tôi hè nhau gánh nước biển
lên và lau sạch cái sân xi măng. Sau một giờ thì chúng tôi có cái sân rất oách
để ngã lưng trong thời gian
tới.
Khi
đã tạm "an cư" sau chuyến hải hành, chúng tôi lăn ra ngủ, chẳng cần ý tứ gì cả,
trước những cái nhìn ngạc nhiên của dân địa phương. Buổi chiều, dân địa phương
thấy thương tình, nên họ đem cơm và thức ăn cho ăn. Một số thì đem gạo và nước
mắm cùng mấy cái nồi cũ để nấu ăn. Sau 3-4 ngày đêm trên biển, đây là lần đầu
chúng tôi có một bữa ăn đúng nghĩa. Ăn tập thể. Vừa vui, vừa ngon. Còn dân làng
thì ngồi chung quanh nhìn chúng tôi ăn và mỉm cười hiền lành. Tôi đoán chắc họ
cũng vui khi giúp được chút ít cho chúng
tôi.
Đêm
đầu tiên ở cái làng chài thì quả là một kinh nghiệm buồn cười. Đám thanh niên
trong làng và [chắc cả các làng lân cận] kéo đến khá đông để ... nhìn. Họ chẳng
làm gì cả, chỉ ngồi chồm hỗm, hút thuốc lá, cười cười nhìn chúng tôi đang co cụm
trong cái sân xi măng. Chúng tôi, người thì nằm, kẻ ngồi, người hút thuốc lá tán
dóc. Đêm đến, chỉ còn một số ở lại, vẫn hút thuốc lá và nhìn. Đám đàn ông thanh
niên chúng tôi cảm thấy hơi bất an, nên bàn với nhau cách tự tự vệ. Trong chuyến
đi, có vài người từng là sĩ quan quân lực VNCH, một số là dân chài, một số là
thư sinh như tôi. Dưới sự chỉ huy của các sĩ quan, chúng tôi chia nhau ngồi
quanh như là canh gác "lãnh địa" tị nạn và bí mật có sẵn "đồ chơi" để khi có
biến động là đối phó ngay. Đêm xuống, dân làng cho mùng để ngủ, đám thanh niên
đàn ông chúng tôi ngủ ở bìa ngoài, còn các bà và phụ nữ ngủ phía trong. Chúng
tôi có một đêm ngủ đầu tiên trên đất tự do, sóng biển rì rào, trời thoáng, gió
mát, chẳng mấy chút ai cũng chìm vào giấc
ngủ.
Đến
gần nửa đêm, tôi cảm nhận hình như có bàn tay sờ nhằm chân tôi. Tôi vẫn còn tĩnh
thức, nên giả bộ ngủ xem bàn tay này làm gì. Đang chuẩn bị đối phó thì bên kia
các anh thanh niên la lớn lên là "Có cướp", và thế là tôi nắm lấy tay của kẻ
đang sờ soạn. Thế là chúng tôi tóm cổ họ một cách dễ dàng. Nhìn kĩ thì toàn là
những thanh niên hồi chiều hút thuốc ngồi chồm hỗm nhìn chúng tôi. Hình như họ
muốn sờ mó mấy cô mấy bà, nhưng họ không ngờ rằng chúng tôi đã có chiến lược bảo
vệ. Bắt được họ, chúng tôi chẳng biết làm gì, còn họ thì vẫn cười hề hề. Anh sĩ
quan trưởng nhóm đánh giá rằng nhìn đám thanh niên này cũng hiền lành, nên thôi
cho chúng đi. Hình như dân làng ở đây lần đầu tiên thấy người nước ngoài nên họ
rất tò mò.
Chúng
tôi ở đó được chừng một tuần thì một chiếc tàu (lần này là "tàu" đánh cá) cũng
từ Việt Nam ghé Budi. Tàu này chỉ có khoảng 10 thanh niên (tôi không nhớ con số
chính xác), nghe nói họ làm cho một hợp tác xã đánh cá và sẵn dịp lấy tàu trốn
khỏi Việt Nam. Nhóm này cũng đi từ Rạch Giá, nhưng xuất phát từ U Minh. Họ nghèo
rớt mồng tơi, gần như không có một tài sản nào cả. Nhóm thanh niên này rất giỏi
đi biển, nên có thêm họ trong nhóm chúng tôi thấy như có thêm "lực lượng võ
trang" để có gì thì ứng phó tốt
hơn.
Vài
ngày sau, lại thêm một chiếc tàu khác ghé Budi. Tàu này lớn hơn, chở hơn 40
người đi từ Cà Mau. Tàu này "giàu" hơn hẳn hai tàu trước, dù đã bị cướp biển hai
lần. Hành trình của họ khá gian nan, phải gần một tuần lễ mới tới Budi. Trong
chiếc tàu mới này có cả con nít và nhiều "thành phần kinh tế" hơn. Trong đó, có
một chú mà tôi quen gọi là "Chú Ba Trung Tá" đầu bạc trắng, sau này quen thân
với tôi. Gọi "Chú Ba Trung Tá" là vì chú là một cựu phi công cấp bậc trung tá,
sau 1975 đi tù cải tạo vài năm, được thả ra và chú tìm đường vượt biên. Chú là
người gốc Bình Định, cũng nghèo xơ xác như tôi (chỉ có cái quần đùi và áo sơ
mi), và chú hay nói chuyện tiếu lâm rất vui. Chú từng học ở Mĩ nên rất giỏi
tiếng Anh, và chú trở thành thông dịch viên cho tất cả 3 nhóm thuyền
nhân.
Ngoài
Chú Ba Trung Tá, trong nhóm còn có một nhân vật đặc biệt gọi là "Anh Ba Hà Nội".
Anh Ba là một kí giả [hình như là đài Tiếng Nói Việt Nam] từ Hà Nội vào Nam công
tác. Anh có quen với một chị từng là chiêu đãi viên của Hãng Hàng Không Việt Nam
trước 1975, và sau này hai người thành hôn (mãi đến sau này chị mới biết anh đã
có vợ ngoài Bắc). Tuy làm việc cho chế độ nhưng anh chẳng ưa chế độ, nên nhân
dịp vào Nam anh cùng với chị bỏ đi vượt biên theo nhóm 23 người chúng tôi. Phải
lên bờ Thái Lan người ta mới biết anh là "cộng sản", và những thuyền nhân thông
cảm cho anh, ai cũng cố gắng bảo vệ anh, vì cái lí lịch cộng sản đó có thể làm
anh bỏ mạng như
chơi.
Kể
ra thì cũng hay, một người VNCH cùng với một anh kí giả "cộng sản" tôi đều kết
bạn thân. Chuyện anh Ba Hà Nội có một kết cục buồn. Sau khi anh và chị được đi
định cư ở Úc khoảng hơn 20 năm thì anh mất tích, gia đình nghĩ và xem như anh đã
qua đời ở đâu đó, và chúng tôi mất một người bạn mà đến giờ nhắc đến anh ai cũng
tiếc.
Budi
là một làng chài rất tiêu biểu ở Đông Nam Á, rất thơ mộng và an bình. Những hàng
dừa cao vút làm bóng mát cho cả làng. Những cây dừa rất cao và thẳng. Nhìn mấy
hàng dừa này tôi tự hỏi làm sao có thể leo lên để hái dừa được. Nhưng vài ngày
sau thì tôi biết, vì họ dùng khỉ để hái dừa. Những con khỉ nhỏ xíu, được mặc áo
đàng hoàng, thừa lệnh của chủ, chúng thoăn thoắt leo lên cây dừa và hái dừa
quăng xuống cát. Nhìn mấy con khỉ hái dừa tôi thán phục cái tài thuần hóa của
người dân địa
phương.
Cái
làng này dù ở rất xa thành phố nhưng đã giàu có hơn Việt Nam rất nhiều. Nhà dân
ở chủ yếu là nhà sàn. Nhà nào cũng có xe hơi, thường là xe pick-up Toyota. Trên
bờ thì đường lộ thẳng băng và xe hơi nhiều hơn xe gắn máy. Dân làng dĩ nhiên làm
nghề biển. Những chiếc ghe nho nhỏ, giống như ghe ở Kiên Giang, tối đi câu mực
hay đánh cá, sáng cặp bến và đàn bà con gái ra gỡ lưới. Cuộc sống của họ phụ
thuộc vào biển, và chỉ xoay quanh cái làng chài thơ mộng
đó.
Chúng
tôi cũng hòa mình vào cuộc sống rất êm đềm của dân làng dù không biết mình sẽ
còn ở đây bao lâu. Đàn bà, con gái thì ở nhà, còn đám đàn ông thanh niên chúng
tôi thì sáng nào cũng đi tìm việc làm để đem thực phẩm. Cách phân chia công việc
có vẻ giống như thời ... Trung Cổ. Thật ra, nhóm phụ nữ cũng không ở không đâu,
vì các cô cũng có người tìm được việc làm. Mỗi sáng ra bờ biển giúp bốc dỡ cá
tôm cho các ghe đánh cá cập biến. Họ thường được cho cá tôm và nước nắm như là
trả công.
Riêng
tôi tìm được một việc làm khá ổn định, đó là đi câu mực với một ông chủ. Gia
đình ông chủ có cái nhà sàn cách chỗ chúng tôi ở chỉ vài phút đi bộ. Chiều chiều
tôi lên cái ghe nhỏ của ông ra biển đánh cá, và chủ yếu là câu mực. Nhớ ngày
đầu, tôi được đàn anh cảnh cáo là coi chừng nó kêu mày ra biển và giết mày đó,
mày phải chuẩn bị. Tôi hỏi chuẩn bị sao đây. Các đàn anh bày ra rằng, lúc nào
cũng ngồi xa ông chủ, và gần nơi có "vũ khí" (cây, thanh gỗ, dao, v.v.) để khi
có chuyện là "chiến đấu" và nhảy xuống biển lội. Tôi làm y chang như lời khuyên,
nhưng sau vài đêm chẳng có chuyện gì xảy ra, và ông chủ thì quá tốt với tôi, nên
tôi nghĩ những cảnh giác đó là quá đáng. Ông chủ thấy tôi không có quần áo tốt,
nên một hôm ông cho tôi cái áo thun rất oách và cái quần short để thay đổi hàng
ngày. Những kỉ vật đó tôi vẫn còn giữa mãi đến 20 năm sau, nhưng một lần chuyển
nhà, nó bị mấy đứa con cho vào thùng rác. Tiếc ơi là
tiếc!
Một
hôm, nhân dịp không đi làm biển tôi theo đám đàn ông đi làm thuê cho một ông chủ
ở cách đó vài chục cây số. Công việc của chúng tôi nghe nói là chỉ đi chặt lá
dừa. Người đến thuê nói sẽ trả giá rất tốt, tính ra mua được cả dạ gạo và cả
thùng nước mắm! Thế là 10 người chúng tôi lên xe 3 xe pick-up chở đến một cái
vườn um tùm và rất rộng. Chúng tôi hăm hở cầm dao mác đi chặt lá dừa. Vài phút
đầu thì chẳng có gì xảy ra, nhưng đi sâu vào trong thì ôi thôi đụng phải ổ kiến
vàng, bị cắn quá chừng. Không thể bỏ việc, vì đã nhận hợp đồng rồi, nên anh em
an ủi nhau cố gắng làm cho xong việc. Đến gần chiều thì chúng tôi cũng phát
hoang xong cho ông bà chủ. Tiền bạc thì rất sòng phẳng, ông bà chủ cám ơn rối
rít, và mời ở lại ăn cơm chiều, làm vài li "Mai Kỏn", loại rượi đế của Thái Lan,
và sau này tôi mới viết Mai Kỏn có nghĩa là Mê Kong. Lần đầu tiên lên bờ Thái
Lan và được uống rượu đế. Nhưng rượu nặng quá, nên chỉ làm được một chút là ...
chạy làng. Chiều về thấy da ai nấy cũng bị sưng vù lên. Mọi người nói mẹ kiếp,
mắc mưu thằng Thái trung gian, lần sau sẽ không chơi với bọn này
nữa.
Những
ngày ở Budi, chúng tôi sống cuộc sống có thể nói là nhàn hạ, và với những kỉ
niệm như thế. Có những người đi làm phụ hồ ở xa, và cũng được trả lương đàng
hoàng. Phải có dịp đi ra ngoài làng mới thấy lúc đó Thái Lan đã giàu có và phát
triển hơn Việt Nam rất xa. Làng xa tít mà cũng có đường trán nhựa chạy bon bon.
Nhà nào cũng có xe hơi, còn xe Honda chỉ để đi chơi là chính. Mấy bà thì nhận
xét rằng ngay cả chai nước mắm hay cái bao ni lông của họ cũng đẹp và sạch sẽ
hơn Việt Nam mình. Xin nói thêm rằng thời đó Việt Nam thậm chí còn chưa làm nổi
bao ni lông! Nhìn cảnh đó, anh em chúng tôi ai cũng lắc đầu cho Việt Nam, không
biết bao giờ mới đuổi kịp Thái
Lan.
Nhưng
quan trọng hơn hết là cuộc sống tự do. Ít thấy bóng dáng cảnh sát. Chẳng ai làm
phiền hà mình. Trưa nào, chúng tôi cũng tụ tập bên nhau nói chuyện, và bàn về
tương lai. Chú Ba Trung Tá và anh Ba Hà Nội hai người có nhiều chuyện để kể, kèm
theo những bình luận sâu sắc. Chú Ba TT kể chuyện chú đi tù ra sao, chuyện các
quản giáo miền Bắc dốt như thế nào, chuyện cười ra nước mắt trong trại cải tạo.
Chú còn kể chuyện vào tù cải tạo gặp toàn những "who is who" của miền Nam trước
đó như Nhà văn Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, v.v. Chú kể rằng trong
chuyến xe lửa chở tù miền Nam ra Bắc, khi xe ra đến Bắc (không nhớ vùng nào) cả
đoàn tàu bị dân ném đá. Mấy người lính canh tù nói "Các anh thấy chưa, tội ác
của các anh là trời không tha, đất không dung, dân chúng ghét. Nếu không có
chúng tôi bảo vệ thì các anh đã chết rồi." Dĩ nhiên, đoàn tù thì thừa hiểu màn
ném đá là một màn kịch có bài bản, nên họ chỉ cười. Đến khi xuống xe để vào trại
thì người ta phát hiện có người tù chết trong xe vì ngộp thở. Những chuyện chú
kể là cả một trời kinh nghiệm và chứng từ của một thời đau khổ. Chú kể chuyện
như chơi, không thấy bất cứ một thù hằn nào trong lời nói, chỉ toàn là tếu
tếu.
Còn anh Ba Hà Nội thì ngược lại, anh kể chuyện ngoài Bắc. Anh Ba HN không biết tiếng Anh, nhưng biết chút tiếng Pháp. Anh là người rất vui tính, ăn nói lưu loát (dân kí giả mà), biết rất nhiều câu chuyện về các vị cầm quyền chóp bu ngoài Bắc. Ngay từ thời đó, anh đã cho biết ông Hồ có vợ mà chẳng ai tin anh! Anh cũng có đề cập đến cái chết của NTX, nhưng lúc đó ai cũng nghĩ anh ta xạo, chẳng ai tin. Nhưng sau này tôi đọc qua hồi kí của Bùi Tín, Vũ Thư Hiên mới thấy những câu chuyện của anh kể rất ăn khớp. Hóa ra, những gì ông Bùi Tín và Vũ Thư Hiên viết không phải là mới đối với giới trí thức Hà Nội. Thỉnh thoảng chú Ba TT quay sang anh Ba HN nói như nửa đùa nửa thật "Thằng này nó là Việt cộng Bắc Việt, nhưng nó nói tao nghe rất được."
Một
hôm, nhân dịp làm thủ tục tị nạn, nhân viên của Liên Hiệp Quốc về phỏng vấn và
mỗi chúng tôi phải điền form màu xanh. Form đòi những thông tin cá nhân, thông
tin về cha mẹ, và lí do rời Việt Nam. Đa số những người tị nạn không biết tiếng
Anh, chỉ có chú Ba TT là người duy nhất biết và có thể giải thích những ô chữ
trong cái form phức tạp đó. Thế là chú nghiễm nhiên trở thành trưởng nhóm, và
ngồi bên cạnh các nhân viên LHQ để thông dịch. Chú mặc quần short, lúc thì ở
trần, lúc thì chỉ khoác cái áo thun đã phai màu, tay cầm thuốc lá phì phèo, nghe
người khai thông tin và dịch lại cho nhân viên LHQ. Chú ít khi nào nhìn xem họ
viết có đúng không, mà chỉ nói như ... sếp ra
lệnh.
Lúc
đó, nhìn phong cách của chú Ba Trung Tá tôi phục chú sát đất. Chú nói tiếng Anh
rất tự nhiên, và với thái độ tự tin đến ... trịch thượng. Tôi nhớ hoài một hôm
chú làm phiên dịch cho một quan chức Thái Lan, và ông quan chức này khen chú nói
tiếng Anh giỏi; chú quay sang chúng tôi rồi tươi cười nói lại: "Tao nói tiếng
Anh giọng nước mắm, vậy mà thằng mọi này nó nói tao nói tiếng Anh giỏi!" Tôi
nghĩ thầm trong bụng, nói người ta là "mọi" nhưng sao người ta sang hơn mình
quá. Người Việt mình đúng là rất tự cao tự đại. Là người tạm dung trên đất nước
người ta, nhưng chú Ba xem quan chức địa phương ... chẳng ra gì, dù không thể
hiện ra thái độ, chỉ thể hiện qua cách nói tiếng
Anh.
Một
hôm khác, chú Ba nhận được thư của đứa con trai ở bên Mĩ gửi, kèm theo ít tiền.
Chú mở thư ra và thấy có hình anh chàng kia đang cầm điện thoại nghe. Chúng tôi
thì thấy bức hình sang trọng quá, và cái điện thoại rất oách. Nhưng chú Ba đọc
thư xong, cầm tấm hình lên và nói "Thằng này nó khoe! Ở bên đó cầu tiêu còn có
điện thoại, có gì mà khoe. Chắc nó tưởng tao ngu lắm." Tụi tôi há hốc ra nghe và
ngạc nhiên. Trời ơi! điện thoại mà có trong cầu tiêu, chú Ba này nói quá! Nhưng
nhìn qua phong cách, chú đúng là có phong cách của người lãnh đạo, tự tin, nhưng
lại bình dị đến lạ
thường.
Hôm
nay, viết những dòng này, tôi đoán chú Ba Trung Tá cũng đã cỡ 80 tuổi (nếu chú
còn sống và tôi hi vọng vậy). Sau này chú đi định cư ở Mĩ, và tôi mất liên lạc
với chú. Nhưng hình ảnh của chú trong tôi là cái típ của một sĩ quan VNCH có học
thức, thông thạo và xốc
vác.
Trại
tị nạn
Songkhla
Ở
Budi độ hai tuần thì chúng tôi được lệnh chuyển trại. Budi chỉ là nới tạm trú để
làm thủ tục, phải đến một trại có đủ ban bệ để các nhà chức trách đánh giá và
xác định tư cách tị nạn. Thế là những ngày êm đềm nhất trong đời tị nạn rồi cũng
qua đi, và đến ngày chia tay. Cuộc chia tay nào cũng buồn, và chia tay Budi cũng
không phải là ngoại lệ. Sau hai tuần ở cái làng chài êm đềm này, đã quen biết
khá nhiều người tử tế, ai cũng cảm thấy lòng mình chùng xuống khi bước lên xe
bus để rời làng. Ngày ra đi có vài người trong làng đến vẩy tay tiễn đưa. Nhìn
những cánh tay vẩy vẩy và những nụ cười hiền lành mà mình cảm động vô biên. Hoá
ra, ở đây tình người có khi còn nặng hơn cả bên quê hương mình.
Tất
cả đều lên hai chiếc xe bus lớn rời Budi. Phải mất một ngày đường, mới đến trại
mới rất nổi tiếng trong người tị nạn. Trại tên là Songkhla. Songkhla là một tỉnh
thuộc miền Nam Thái Lan (Songkhla là tên của một hoàng tử Thái Lan). Trại tị nạn
Songkhla là một trại khá lớn, lúc tôi đến đó thì đã có hơn 5,000 người trong
trại. Bfhe nói trong lúc cao điểm trại này có đến 10,000 người tị nạn. Trại nằm
dọc theo bờ biển, rất đẹp mắt. Phía trước là biển, phía sau là một dãy núi, và
dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẻm gai. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang
của trại chỉ khoảng 50- 80 mét, chiều dài thì đi bộ chỉ 15 phút là hết. Người tị
nạn không được ra ngoài trại nếu không được
phép.
Hình chụp tại trại tị
nạn Songkhla (tôi lấy trên mạng).
Trại này có thể chứa đến
10 ngàn người tị nạn. Songkhla là một tỉnh ở miền Nam Thái
Lan.
Nguồn:
johnl-jlreflections.blogspot.com.
Người
tị nạn ở trong những cái chòi tạm thời (do những người trước đây dựng lên) ngay
bên bờ biển. Tôi cũng có một cái chòi, và phải "share" với những người độc thân
khác. Từ Budi lên đây thì nhóm đã bắt đầu chia ra thành từng nhóm nhỏ và hoà
mình vào trại lớn hơn. Có người tìm gặp thân nhân đã qua trước nên họ về ở
chung, còn những người "con bà phước" thì tụ tập với nhau thành từng nhóm nhỏ và
xoay xở qua
ngày.
Những căn chòi trong trại Songkhla. Nguồn: johnl-jlreflections.blogspot.com.
Ngày
đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam.
Người ở đâu mà đông đúc ghê, mật độ dân số ở đây chắc phải cao nhất nhì thế
giới! Nhìn qua cách ăn mặc, thấy người nghèo nhiều hơn người giàu, và điều này
cũng dễ hiểu. Đại đa số người nhập trại là đã bị cướp bóc trên biển, nên họ
chẳng còn gì. Tuy nhiên, cũng có nhiều chuyến may mắn, nên bà con còn giữ vàng
và tiền đến đây. Lại có một nhóm khác ở đây khá lâu (trên 6 tháng) và được thân
nhân nước ngoài tài trợ, nên họ cũng có cuộc sống khá đầy đủ. Có người còn tiền
hay mới có tiền mở hàng quán ngay trong trại. Đủ loại quán, nhưng quán ăn và
quán nhạc là phổ biến nhất. Nhìn từ xa có thể thấy một khu rất trù phú và tấp
nập, và quả thật là như
thế.
Hai
bên đường chật hẹp là hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê, mọc lên đầy rẫy.
Những hàng quán này làm ăn rất khá, vì ở trong trại đâu có việc gì làm, nên
người ta thả hồn theo khói thuốc và cà phê. Có nhiều khách hàng là những chàng
trai mặt mũi rất "ngầu", tóc dài chấm vai (nom y như những người đóng vai du côn
trong các phim xã hội đen) phì phèo những điếu thuốc lá "Samit" hay "555" bên li
cà phê đen. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não,
nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v. được phát
thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải
đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ dập dìu tài tử giai nhân son phấn
lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mĩ đắc tiền
đi "dạo phố" như trẩy hội! Thành ra, nói là trại tị nạn, nhưng lại là một xã hội
Việt Nam thu
nhỏ.
Cha Joe (không rõ họ gì,
nhưng là người Mĩ gốc Nga) là một đại ân nhân của người tị nạn Songkhla. Ông
chăm sóc nhiệt tình cho người tị nạn nghèo khó ở
Songkhla.
Vốn
được chuyển lên đây từ một vùng quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc
lõng như một thành phần "outcast" trong xã hội tị nạn này. Quả thế, vì từ lúc
lên bờ cho đến khi đi chuyển trại, tài sản duy nhất mà tôi có là hai cái quần
short và hai cái áo ngắn tay do một ông chủ ở Budi tặng cho. Nhiều khi đi qua
các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc của Nguyệt Ánh và Việt Dũng mà
buồn mà buồn vời vợi ... Lúc đó, ai cũng nghĩ một lần đi là vĩnh biệt, không bao
giờ về Việt Nam nữa. Do đó, những sáng tác nhạc thời đó rất ray
rức.
Nắng
nơi đây vẫn là nắng ấm
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
hay
Đến
bao giờ trở về Việt Nam
Thăm đồng lúa vàng, thăm con đò ven sông
Thăm đồng lúa vàng, thăm con đò ven sông
Những
ca từ đậm chất thơ và miên viễn đó theo tôi tận đến ngày hôm
nay.
Nhưng
những cảnh phồn vinh náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn
trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh
của một quá khứ quá khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những
câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn
may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ
nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh
chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. ó trường hợp bọn cướp
biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Có người bị bệnh tâm thần khi
lên đến trại này. Tôi đã từng thấy những người rách rưới đi lang thang trại,
miệng lằm bằm nói gì chẳng ai hiểu, rồi thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc thảm
thiết. Nhìn những người đó tôi dù chưa biết sự việc đằng sau nhưng đã thấy đau
quặn lòng. Thế giới đã nghe nhiều về “holocaust”, "killing field" (cánh đồng
chết chóc) nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về những cuộc thảm sát trên
biển Đông. Do đó, sau này khi qua Sydney, tôi có tham dự một cuộc viết văn do
tạp chí "The Good Weekend" tổ chức, và tôi được giải với bài "Killing Sea". Vùng
biển Thái Lan là nơi đã từng chôn vùi biết bao thân xác của đồng hương ta. Thành
ra, không phải ngẫu nhiên mà Du Tử Lê muốn mang xác mình ra biển khi qua
đời:
Khi
tôi chết hãy đem tôi ra biển
Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi
Bên kia biển là quê hương tôi đó
Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
...
Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển
Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
Những năm trước bao người ngon miệng cá
Thì sá gì thêm một xác cong queo.
Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi
Bên kia biển là quê hương tôi đó
Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
...
Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển
Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
Những năm trước bao người ngon miệng cá
Thì sá gì thêm một xác cong queo.
...
Khi
tôi chết hãy đem tôi ra
biển
Và
trên đường hãy nhớ hát quốc
ca
Ôi
lâu quá không còn ai hát
nữa
(bài
hát giờ cũng như một hồn
ma)
Khi
tôi chết nỗi buồn kia cũng
hết
Đời
lưu vong tận tuyệt với linh
hồn.
Một
VNCH thu nhỏ và oán
thù
Trại
Songkhla là một nước VNCH thu nhỏ. Trại có ban quản lí, do người Thái đảm trách,
với sự hỗ trợ và cố vấn của người Việt tị nạn. Những người cố vấn thường là sĩ
quan hay quan chức cấp cao trong chế độ VNCH trước đây. Nếu ngày xưa VNCH có
tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay
có "Ban Trật tự"; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được "đổi tên" thành "Ban Thông
tin Văn hóa"; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành "cựu quân
nhân", có người còn tự cho mình lên chức (xưa là trung úy nay thành đại úy!)
Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng
có tham ô và hối lộ. Có khi cường độ tham nhũng còn trắng trợn
hơn.
Bất
cứ ai, kể cả tôi (dĩ nhiên), đều có thể thấy những hành vi tham nhũng trong trại
tị nạn. Theo qui chế của Cao Ủy Tị Nạn, chúng tôi, những người mới nhập trại
được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm
Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được thằng em họ nhập trại trước
tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được
phát gì cả. Thằng em họ của tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và
nói đại ý là "Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có
tiền thì mới mua được." Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói
ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em
tôi đủ sống ít
ngày.
Ban
Bưu Tín cũng là một trung tâm khét tiếng ăn chận, ăn cắp hay nói đúng hơn là ăn
cướp, tiền bạc của người tị nạn. Có nhiều thư từ và tiền bạc từ nước ngoài chẳng
bao giờ tới tay thân nhân trong trại. Tôi cũng là một nạn nhân của ban Bưu Tín
này. Và, nếu có tới người thân thì cũng bị cắt xén, ăn chận. Trong khi các Ban
có cơ hội ăn hối lộ, ăn chận đồng hương thì cũng có ban chuyên hành hạ đồng
hương.
Ban
Trật Tự ở trại đáng lí ra gìn giữ trật tự thì họ lại kiêm luôn việc lạm dụng
quyền và có khi khủng bố đồng hương. Họ đánh người một cách chuyên nghiệp, không
nương tay, và vô cùng tàn nhẫn. Không biết bao nhiêu người tị nạn vô tội đã là
nạn nhân của nhóm người ác độc này. Tuy cùng cảnh ngộ tị nạn, nhưng những người
có quyền chức trong trại tị nạn không hẳn là thân thiện với những người kém may
mắn hơn. Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự nhục nhã, nhưng bị chính người
tị nạn hành hạ lại còn đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những
hành động xấu xa và dã man của những người Việt đối với người Việt. Tôi nhủ thầm
một ngày nào đó, tôi sẽ viết một cuốn sách và sẽ lấy tên là "Người Việt Nam Xấu
Xa" cho cân xứng với cuốn "Người Việt Cao
Quí".
Ngày
đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ
các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào
vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn
ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới
sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến
trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người
tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một
anh thanh niên nọ bị tố cáo là "cộng sản", anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị
đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường.
Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra
hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi
gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): "Đ M, muốn gì? Mày cũng là cộng
sản hả?". Tôi cũng sẵn sàng "chơi", nhưng anh tôi lôi ra ngoài. Nếu không thì
chắc chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến
nổi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị
tật. Đó là lần đầu tiên tôi mục kích cảnh người đánh người tàn bạo, không thương
tiếc như
thế.
Sau
cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi bị
dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung
quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem.
Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội qui sinh hoạt trong trại,
nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh
thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và
cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng nói Bắc kì nghiêm trọng và vẻ mặt đằng
đằng sát khí, ông ta yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc
gì với chế độ cộng sản. Bắt chước một kĩ thuật đe dọa của người cộng sản, ông ta
nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai
thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời
khai của mình đều đã được nhân viên Cao Ủy Tị Nạn LHQ ghi chép ở Budi; thế thì
cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm việc dưới chế
độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng
...
Nhưng
hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng
bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm kí hiệu cho tôi biết là đừng khai. Anh Ba Hà Nội
ngồi cạnh tôi và có lẽ có kinh nghiệm hơn tôi về những trò này, cũng khuyên tôi
là cứ lờ đi cái "lí lịch dính líu cộng sản" đó. Tôi và anh Ba Hà Nội thoát nạn.
Nhưng không may mắn cho những người khác, trong đó có hai anh bạn của tôi, T và
S trong tàu "Thủy Sản" từ Budi lên, những người đã thành thật khai báo là có làm
việc sau 1975 như là tài công và thủy thủ. Hai anh này liền được "mời" lên Ban
Trật Tự "làm việc". Cả hai bị đánh nhừ tử. Mặt hai anh này bị sưng húp lên, mắt
thì bầm, nhưng ánh mắt đầy vẻ hận thù. Tối hôm đó, tôi nằm ngủ bên cạnh hai anh
phía ngoài căn chòi bên cái giếng nước, nghe anh T thề rằng sẽ có ngày trả thù
bọn người mà anh ta cho là "lũ chó
đẻ".
Sự
đời có vay thì có trả. T và S sau này được định cư ở Mĩ. Hai người vẫn giữ liên
lạc với tôi một thời gian. Một hôm tôi nhận được thư của họ hân hoan báo cho tôi
biết là họ đã trả thù những kẻ đánh họ trong trại tị nạn ngay tại phi trường. Số
là họ nắm được thông tin về ngày giờ và nơi đáp máy bay mà những người đánh họ
trong trại tị nạn, và thế là họ bao vây và trả thù. Họ không nói trả thù ra sao,
nhưng chắc những kẻ hành hạ họ cũng bị một trận nhừ tử. Ở Úc cũng xảy ra những
chuyện tương tự. Có một anh chàng Thái làm cảnh sát hay đánh người tị nạn, chẳng
hiểu sao sang được Úc, và anh ta cũng bị nạn nhân của anh ta trả thù đích
đáng.
Tôi
ngao ngán cho số phận tị nạn. Hết bị người Thái hành hạ, giờ đến bị nhóm người
đồng hương tự nhận là "yêu chuộng tự do" đánh đập. Sau lần T và S bị đánh, có
một anh cựu sĩ quan đi chung thuyền với tôi, lân la tìm chỗ tôi trú ngụ và nói
bâng quơ "Tao mà nói ra thì có thằng còn bị đánh nữa!" Ý anh ta muốn nói tôi và
anh Ba Hà Nội. Tôi kinh tởm cho anh chàng sĩ quan này, vì anh ta là người "đi
ké" và bị chê là hèn khi đi trên thuyền mà giờ này trở mặt mau như
thế.
Ở
trong một môi trường khủng khiếp như thế, ai cũng mong mình được đi định cư ở
một nước thứ ba càng sớm càng tốt. Cứ mỗi lần nghe Khánh Ly hát "Ngày mai em đi,
biển nhớ tên em gọi về …" (bài Biển nhớ, một ca khúc rất nổi tiếng của ông Trịnh
Công Sơn thường được dùng để tiễn người may mắn được nằm trong danh sách lên
đường) là mỗi lần tôi buồn cho thân phận mình, chẳng biết bao giờ mới được đi và
đi đâu.
Theo
định kì, nhân viên từ các tòa đại sứ ở Bangkok (mà người trong trại quen gọi là
"phái đoàn") xuống tận trại để chọn người định cư ở nước họ. Trong số các nước
quan tâm tới người tị nạn, Mĩ, Úc, Gia Nã Đại, và Pháp thường hay phái nhân viên
xuống trại phỏng vấn và làm thủ tục định cư. Trong trại Songkhla thì Mĩ đến
thường xuyên, nhưng Úc và các nước khác thì thỉnh thoảng mới xuống phỏng vấn.
Sau khoảng ba tháng ở trại, tôi nghe tin qua loa phóng thanh, có phái đoàn tòa
đại sứ Úc xuống làm việc ở
trại.
Lúc
bấy giờ, Úc là một nước khó nhất đối với người tị nạn; ngoài các tiêu chuẩn về
nghề nghiệp, học vấn, v.v. họ yêu cầu người xin định cư phải viết một lá đơn
bằng tiếng Anh, nói rõ tại sao muốn đi Úc. Lúc đó tôi không có lựa chọn hay ý
niệm gì cụ thể là mình sẽ đi nước nào định cư. Nhưng vì Úc là phái đoàn đầu tiên
xuống đây [sau ngày tôi nhập trại], và tôi đã quá chán ngán với cảnh đời tị nạn
trong trại, nên tôi quyết định xin gặp phái đoàn để hi vọng được đi Úc [hay bất
cứ nước nào, miễn là rời khỏi cái trại khốn khổ này]. Nhưng trình độ tiếng Anh
của tôi lúc đó quá tồi, không đủ khả năng viết nổi một lá đơn xin tị nạn! Bấy
giờ, chú Ba Trung Tá đã được chuyển sang trại khác cùng người yêu của chú chờ
ngày đi Mĩ. Tôi đành nhờ hết người này đến người khác viết đơn dùm tôi, nhưng
chẳng ai thèm giúp tôi. Người thì nói bận, người thì đòi tiền, có người còn mắng
tôi như tát nước vào mặt. Lúc đó, tôi thấy sự độc lập thật là quí báu, và tôi tự
nhủ thầm sẽ cố gắng không nhờ vả người Việt trong tương lai. Cái nguyên lí này
tôi vẫn còn giữ cho đến ngày hôm
nay.
Tôi
quyết định mình tự viết, đến đâu hay đến đó. Tôi lầm lũi lên thư viện trại, ngồi
cả ngày lật quyển từ điển cũ kĩ chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Anh lá đơn của
tôi. Tôi dịch từng chữ một, có khi không chia động hay theo một qui tắc văn phạm
nào cả. Nếu bây giờ có dịp đọc lại thì chắc là buồn cười lắm. Nhưng cuối cùng
thì tôi cũng có một lá đơn để nộp cho phái đoàn
Úc.
Vài
hôm sau, loa phóng thanh kêu tên tôi lên gặp phái đoàn Úc để phỏng vấn. Trong
thời gian ngắn ở trại, tôi đã từng nghe qua nhiều câu chuyện về những người đi
trước bị các phái đoàn từ chối cho đi định cư chỉ vì trả lời phỏng vấn không
thông hay không có lí do chính đáng. Những cũng có người bị từ chối vì những lí
do chẳng đâu vào đâu. Chẳng hạn như phái đoàn Mĩ có ông Mĩ "Gà đá" (vì ông xâm
tay hai con gà đá) thích thách thức dân tị nạn kéo tay, nếu thắng ông ấy nhận,
thua thì chờ dịp sau! Tôi đến phỏng vấn trong một tâm trạng hồi hộp và … bỏ mặc
số phận cho
trời.
Vì
thế, tôi hồi hộp bước vào phòng phỏng vấn trong ánh mắt theo dõi của nhiều đồng
hương khác. Anh chàng nhân viên sứ quán Úc cao, to, râu ria xồm xoàm, nhìn lá
đơn của tôi và hỏi qua anh thông dịch viên:
"Ai
viết lá đơn này?"
Tôi
trả lời, cũng qua anh thông dịch viên:
"Tôi
viết."
Anh
ta mỉm cười.
"Anh
có học tiếng Anh bao giờ chưa?"
"Dạ
chưa," tôi rụt rè trả lời.
"Anh
muốn đi Úc làm gì?"
"Dạ,
đi học hay làm ruộng."
"Tiếng
Anh như vầy sao học được? Anh cũng không đủ tiền làm ruộng
đâu!"
Tôi
ngỡ ngàng trước câu bình phẩm của anh ta (làm ruộng mà cũng cần tiền ư!), cảm
thấy thất vọng (đúng là tiếng Anh của mình quá dở), và nghĩ rằng cái mộng đi Úc
tiêu tan rồi. Nhưng anh ta hỏi
tiếp:
"Ngoài
những lí do anh nêu trong đơn, anh còn có lí do nào khác để xin đi Úc
không?"
Tôi
nhớ hồi còn đi học có thấy con Kangaroo và ước mơ có ngày được nhìn nó tận mắt.
Tôi bèn thực tình
nói:
"Tại
tôi muốn ... nhìn thấy con Kangaroo!"
Anh
ta trợn mắt nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên bật cười ha hả, chìa một tay ra bắt
tay tôi, tay kia anh đóng cái "rầm" cái mộc xuống tờ giấy và nói "OK, tôi nhận
anh. Qua bên kia làm thủ tục mau
đi!"
Trời
ạ! Tôi hơi sững sờ và chưa kịp nói lời cám ơn, thì anh ta đã khoát tay cho tôi
đi qua phía bàn bên kia làm thủ tục khác. Đa tạ anh Úc! Đa tạ! Tôi không thể nào
quên anh Úc này mà tôi coi như một ân nhân. Câu chuyện tôi được đi Úc là ngẫu
nhiên như thế. Sau này kể lại chuyện này cho các bạn người Úc nghe, ai cũng ngạc
nhiên và cười nghiêng ngã. Chỉ vì con Kangaroo mà tôi được đi Úc; nếu không thì
chắc tôi đi Mĩ rồi. Sau này, tôi còn gặp lại anh chàng phỏng vấn tôi, nhưng lúc
đó tôi là trợ giảng còn anh là sinh viên sau đại học ở trường Sydney. Vòng đời
xem ra tròn trịa
lắm.
Panatnikom
và những mảnh đời tị
nạn
Theo
thủ tục chung thì sau khi được một phái đoàn chấp nhận cho đi định cư, người tị
nạn được chuyển đến một trại chuyển tiếp (gọi là "transit camp"). Thật ra, lúc
tôi vào trại Songkhla thì cũng là lúc trại chuẩn bị đóng cửa. Nói là "chuẩn bị
đóng cửa", nhưng cũng phải 5-6 năm sau thì mới thực hiện được ý định đó, một
phần là do làn sóng người tị nạn đang lên cao nên các chính phủ nước ngoài gây
áp lực lên Thái Lan không nên đóng cửa trại. Sau khi được phái đoàn Úc nhận
khoảng ba tháng, tôi được chuyển đi trại chuyển tiếp Phanat Nikhom ở miền bắc
Thái Lan. Sau này tôi mới biết Phanat Nikhom là một quận thuộc tỉnh Chonburi,
một tỉnh miền đông Thái
Lan.
Một cảnh trong trại
Phanat Nikhom. Những khu nhà đó, mỗi nhà chứa khoảng 10-20 người. Đây là khu
dành cho người Kampuchea.
Từ
Songkhla đến Phanat Nikhom khoảng một ngày đường (bằng xe bus). Xe tôi đi qua
những đồng ruộng, đồi núi chập chùng của Thái Lan mà tôi cho là rất đẹp, không
thua gì cảnh đồi núi Việt Nam. Đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng núi chưa tới
đâu, tôi giật mình nhận ra một tai nạn kinh hoàng trong đoàn xe bus. Chiếc xe
bus phía sau xe tôi, không rõ do anh tài xế bất cẩn hay ngủ gục, bị lật xuống
đường ruộng. Một anh tị nạn trẻ tuổi ngồi ở cửa sổ bị đứt lìa một cánh tay khi
chiếc xe chạm vào đường nhựa và kéo lê cả mười thước. Tôi xuống xe nhìn thấy anh
ta đang nằm bất tỉnh bên lề đường, cánh tay bị đứt lìa đã biến thành màu nâu đen
nằm lăn lóc bên đường lộ. Bị ám ảnh cái cảnh tượng khủng khiếp đó, nên mấy ngày
sau, tôi không ăn uống gì cả. Sau này, tôi nghe nói anh bạn trẻ đó được đền 50
ngàn bhat!
Thời
đó (1981), Phanat Nikhom là một trại thuộc vùng giữa nơi "đồng không hiu quạnh".
Khi tôi đến thì thấy đất cát vàng như sa mạc, rất ít cây lá màu xanh. Nước uống
và nước sinh hoạt cũng không có, mà phải khoan giếng hoặc được tiếp tế từ bên
ngoài bằng các xe tải. Mỗi ngày, mỗi người tạm trú được cung cấp khoảng 15 lít
nước dùng cho vệ sinh cá nhân, giặt giũ và nấu nướng. Nhìn toàn cảnh và chung
quanh thì rất ít nhà dân, có lẽ đó cũng là ý đồ của chính quyền Thái Lan không
muốn người tị nạn lang thang "bậy bạ". Tuy nhiên, người tị nạn vẫn có cách tiếp
xúc với người dân địa phương và mua hàng hóa từ họ trước sự làm lơ của cảnh sát
Thái Lan. Sau này (2007) trong một chuyến công tác bên Thái Lan, tôi quay lại
đây thì không còn nhận ra đây từng là trại tị nạn nữa, vì nhà dân mọc lên san
sát nhau, cây cối um tùm. Phanat Nikhom bây giờ là một nơi dân cư sầm uất của
quận.
Trại
này lớn hơn trại Songkhla nhiều, có thể chứa tới cả hàng 50 ngàn người. Không
giống như Songkhla, trại này có nhà hẳn hoi cho người tạm trú. Hàng ngàn dãy nhà
được xây cất bằng các vật liệu như fibro, tole, và xi măng. Mỗi nhà chứa khoảng
10 đến 15 người, và cũng không có ngăn chia phòng ốc gì cả. Lúc chúng tôi mới
nhập trại, thì các khu nhà này mới vừa mới xây xong. Do đó, trong nhà hoàn toàn
trống tuếch, chúng tôi phải ngủ dưới sàn xi-măng, nhưng như vậy đã là quá sang
trọng rồi! Cuộc sống ở đây có phần chật vật hơn so với Songkhla, nhưng hình như
chẳng ai quan tâm vì biết rằng khi đã đến đây thì trước sau gì cũng lên đường đi
định cư ở một nước thứ ba. Do đó, nhiều người tận dụng thời gian ở trại chuyển
tiếp để học tiếng Anh và học phong tục tập quán nơi mình sắp định
cư.
Khác
với trại Songhla chỉ có người Việt tị nạn, còn tại đây trại Phanat Nikhom có đủ
ba nhóm người tị nạn từ Việt Nam, Lào, và Kampuchea. Trại do đó được chia thành
3 khu riêng biệt dành cho người Việt, Lào và Miên. Khu người Việt lớn nhất,
nhưng cũng là khu xảy ra nhiều vấn đề nhất làm đau đầu người Thái. Trong khi hai
nhóm tị nạn kia có vẻ an phận, nhóm người Việt có lẽ do tổ chức chặt chẽ hơn, có
trình độ văn hóa hơn, (và có lẽ cũng tự hào hơn), nên người Việt không tỏ ra
phục tùng ban quản trị Thái. (Trại này hoàn toàn do các viên chức ngành cảnh sát
hay quân đội người Thái điều hành, người Việt chỉ làm phụ tá, hay trong một vài
trường hợp, làm tay sai cho họ. Người Việt đi đâu cũng có người trở thành tay
sai.) Thỉnh thoảng người Việt kéo nhau biểu tình, gây áp lực đến Liên hiệp quốc
về những chính sách công cộng ở đây. Có lẽ một phần vì thế mà các viên chức
người Thái không ưa người Việt ở
đây.
Trại
Phanat Nikhom là nơi qui tụ rất nhiều nhân vật nổi tiếng của miền Nam thời trước
1975. Hầu như ai đi tị nạn ở Thái Lan đều qua trại này, nên đều có dịp gặp hay
quen biết nhau. Lúc tôi lên thì đã có những nhóm văn nghệ hình thành. Thời đó,
ca sĩ Tuấn Anh (người có trang phục khác thường) đã nổi tiếng là một người hát
hay. Nhưng những show ca nhạc thường được tổ chức bên kia trại, nên chúng tôi
thỉnh thoảng phải hối lộ cho cảnh sát Thái để họ cho qua xem văn
nghệ.
Thực
phẩm được chuyển từ ngoài vào trại.
Về
sinh hoạt và ăn uống ở đây (trại Phanat Nikhom) thì theo nguyên tắc là do nhà
thầu Thái Lan cung cấp. Như nói trên, nước được vận chuyển từ ngoài vào, và họ
chia bình quân từng đầu người. Thức ăn thì do nhà thầu nấu trong trại. Vì nấu
cho hàng ngàn, hàng vạn người ăn (theo kiểu xã hội chủ nghĩa), nên phẩm chất rất
tồi tệ. Nếu chỉ nhìn thoáng qua những mảng cơm nhão như cháo hay thiu cùng những
"món ăn" gà và cá kho "lựu đạn" (tức là chỉ có xương), người ta có thể được tha
thứ nếu nghĩ đó là một một loại thức ăn cho thú vật, chứ không phải cho con
người! Nhưng dưới bàn tay chế biến tài tình của các bà nội trợ Việt, những con
"gà lưu đạn" đó được biến hóa thành những món ăn rất ngon miệng. Mỗi ngày, chúng
tôi (đám thanh niên, đàn ông) đi nhận thức ăn về, các bà các cô trong nhà thì
chuẩn bị nấu nướng lại, và cả nhà (vài chục người) cùng ăn chung. Bữa ăn nào
cũng ngon và vui. Kể ra thì thời gian ở đây cũng là một quãng thời gian có nhiều
kỉ niệm.
Đời
sống người Việt ở trại Phanat Nikhom có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Gia đình
đổ vỡ, chuyện tình éo le, sư sãi hoàn tục, linh mục dỏm, v.v. xảy ra hàng ngày.
Một nhà sư nọ, có lẽ vì chân tu chưa tới, nên đã dang díu với một ni cô khác
cũng tu chưa tới. Sự việc hai người bị bắt quả tang trong lúc hành lạc được đưa
ra công chúng và ngươi Thái được một dịp khinh khi người Việt. Xấu hổ. Bên cạnh
nhà tôi, một ông cựu thiếu tá nọ tằng tịu với một cô sinh viên mà tuổi đời chỉ
bằng tuổi con ông cũng gây ra nhiều bàn tán xôn xao. (Nếu bây giờ thì chắc chẳng
ai quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, nhưng thời đó thì người mình còn "bảo
thủ"). Cái nắng cháy da của vùng sa mạc Thái Lan không làm chùng bước yêu đương,
mà còn tăng nhiệt độ cho hai con tim nóng bỏng đang yêu, họ âu yếm quyện vào
nhau mỗi trưa hè trên chiếc võng một cách cực kì tự nhiên và hết sức "Tây"! Ban
đầu bà con còn thấy lạ lùng và khó hợp nhãn quang, nhưng dần dà rồi cũng quen
đi.
Ở
đây có rất nhiều nhóm thiện nguyện từ các nước như Mĩ, Úc, Canada đến giúp người
tị nạn. Đa số là các nhóm tôn giáo, nhưng cũng có những nhóm phi chính phủ và
không liên quan gì đến tôn giáo. Họ hoạt động rất nhịp nhàng với nhau, mỗi nhóm
phụ trách một mảng, và không trùng hợp nhau. Chẳng hạn như nhóm phụ trách tiếng
Anh, nhóm lo thư viện, nhóm dạy về đời sống mới bên Tây, thậm chí có cả các nhóm
truyền đạo. Những nhóm này thường sử dụng người tị nạn để làm việc, vì họ biết
trong cộng đồng người tị nạn có nhiều người giỏi tiếng Anh và có kinh nghiệm
điều hành tổ chức. Phải qua đến đây mới thấy người Việt chúng ta nổi trội hẳn so
với người Lào và Miên. Nhìn qua các nhân viên làm việc cho các nhóm thiện
nguyện, có thể nói gần 100% là người Việt, số người Miên và nhất là Lào thì rất
hiếm.
Một
lớp học cho người Hmong trong trại Phanat Nikhom.
Riêng
tôi, khi lên trại này, tôi cũng thay đổi. Thay đổi lớn nhất là tôi có cơ hội đi
học tiếng Anh. Lúc đầu tôi ghi danh vào một lớp dạy tiếng Anh do nhân viên thuộc
các tổ chức từ thiện giảng dạy. Không biết vì chính sách hay vì không rành
phương pháp sư phạm, họ dạy rất thực tế những câu nói thông thường, không cần để
ý tới văn phạm, cú pháp, lúc nào cũng "How are you", "I am fine, thank you", "My
name is ...", v.v. Chỉ một tuần theo học, tôi đã chán ngấy và bỏ học. Tôi không
muốn học kiểu đó, mà phải học từ căn bản. Nhưng sau này tôi hiểu tại sao họ dạy
như thế, vì mục tiêu là làm sao học viên có được những câu chữ thông thường để
đi xin việc và giao tiếp, chứ mục tiêu không phải là khoa
bảng.
Sau
một vài ngày, tôi xin được một việc làm thủ thư trong thư viện của một tổ chức
tôn giáo Tin Lành "Assembly of God" ngay trong trại. Thư viện này do một anh tị
nạn người Miên làm sếp. Anh này rất giỏi tiếng Pháp và tiếng Anh, và nhìn qua
phong cách thì chắc ngày xưa cũng là quan chức trong chính quyền hay hệ thống
giáo dục bên đó. Anh ta rất thích tôi, nhưng không xem tôi ra gì vì tôi nói
tiếng Anh sao bằng anh ấy. Công việc thủ thư của tôi là một cơ hội trời cho để
học và đọc tiếng Anh. Mỗi ngày, tôi có nhiệm vụ việc sắp xếp sách báo cho có thứ
tự. Mà, thư viện thì nhỏ, chỉ cao lắm là 1000 cuốn sách và tạp chí, chủ yếu là
từ nước ngoài, nhưng một số sách báo tiếng Việt là từ cộng đồng người Việt ở Mĩ
gửi tặng. Thành ra, sau khi làm xong việc, tôi quay sang học tiếng Anh một mình
ở một góc nhỏ của thư
viện.
Cách
học của tôi rất chậm. Mỗi sáng, tôi gom góp những tờ báo gói rau cải, xếp lại
cho phẳng rồi đọc tin tức. Đó là những tờ nhật báo tiếng Anh của Thái Lan như
"The Nation" và "The Bangkok Post". Những bản tin liên quan đến Á châu có những
danh từ tôi thấy quen quen, nhưng không chắc. Thế là sáng nào tôi cũng tìm những
chữ mình muốn học, sau đó vào thư viện tra từ điển xem cách phát âm ra sao,
nguồn gốc của chữ, cách dùng như thế nào, v.v. Có khi suốt ngày tôi để tâm học
chỉ một chữ! Cái thú vị của cách học từng chữ này là nó giúp cho tôi có căn bản
và tự tin trong cách phân biệt và dùng tiếng Anh cho chính xác. Học từ căn bản
dĩ nhiên là chậm và khó, nhưng lúc nào cũng hay hơn học theo kiểu tài tử giữa
chừng. Tôi ghi chép rất cẩn thận và chi tiết những qui luật về văn phạm tiếng
Anh. Sau vài tháng tự học, tôi thấy cuốn sổ tay của mình đã trở thành một cuốn
sách văn phạm tiếng Anh, và tôi cũng thấy mình tự tin hẳn lên, mặc dù nói chưa
được nhiều, vì không có cơ hội thực hành đối
thoại.
Học
tiếng Anh hay nhất là phải có một người bạn. Thời đó, tôi may mắn quen với một
anh bạn gốc Huế tên Ấn (sau này định cư ở Melbourne và tôi mất liên lạc). Chính
anh Ấn nói với tôi là mình phải học tiếng Anh từng chữ một. Anh lí giải, chỉ cần
có vốn ngữ vựng khoảng 2500 từ là mình "nắm" được tiếng Anh. Nói là 2500 từ,
nhưng phăng ra thì cũng thành 10,000 từ. Trưa nào tôi và anh ấy cũng đố nhau về
tiếng Anh. Có những chữ tôi biết, anh ấy không biết, hay ngược lại, và thế là
vốn ngữ vựng tăng lên nhanh chóng. Đến khi thấy mình có đủ "võ" tôi bàn với anh
Ấn là mình phải "phục hận" cái anh chàng sếp người Miên vì anh ta có vẻ xem
thường bọn mình quá. Cách phục hận rất hết sức trẻ con và rất Việt Nam: chúng
tôi tìm cách la cà với anh ta, rồi đưa ra những chữ thật khó để xem anh ta có bí
không; khi anh ta bí, chúng tôi nói "trình độ của mày như vậy mà làm sếp tao à?"
Anh người miên lớn tuổi hơn và kinh nghiệm đời hơn nhìn chúng tôi mỉm cười và
nói kiểu "thôi cố gắng đi học thêm đi mấy ông!" Cái trò nhỏ nhặt và ranh mãnh đó
mà chúng tôi mang từ Việt Nam sang đây và khi va chạm với thế giới lớn hơn mới
thấy mấy trò đó trẻ con biết là dường nào. Tưởng rằng hơn người ta một chữ hay
bắt bẽ người ta một thông tin nào đó là mình "ngon lành" lắm thì chỉ có người
Việt mới nhỏ mọn như thế. Anh Ấn và tôi học được bài học này từ anh sếp người
Miên.
Bangkok
hoa lệ và tử
tế
Ở
trại Phanat Nikhom được khoảng 6 tháng, tổ chức ICM (Inter-governmental
Committee for Migration) của Liên hiệp quốc sắp xếp cho tôi lên đường đi định
cư. Nhóm chúng tôi chỉ đi Úc, và trong chuyến đi Úc có tất cả 54 người. Chúng
tôi khởi hành bằng xe bus từ Phanat Nikhom lên Bangkok. Sau khoảng 5 giờ đi
đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong các
trại tị nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến Bangkok bằng một tâm trạng của một
người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và
xe hơi chạy như mắc cửi, tôi trố mắt nhìn những building cao vút, những khu phố
tấp nập, tôi thấy Bangkok đã bỏ Sài Gòn quá xa. Lúc đó tôi mới thấy "Hòn ngọc
Viễn Đông" Sài Gòn của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé
nhỏ!
Nhưng
lên Bangkok, chúng tôi lại được chuyển vào một ... trại giam khác. Bây giờ tôi
không còn nhớ tên trại giam, chỉ nhớ rằng đó là trại giam nằm trong thành phố,
có rất nhiều tù nhân người ngoại quốc. Trại giam hơi âm u, có lẽ chúng tôi đến
đó trong một ngày mưa, nhưng có ánh sáng mặt trời từ ngoài. Tất cả chúng tôi
được dồn vào một cái phòng khá lớn, nhưng đủ cho khoảng 40 người, tất cả đều chờ
để lên máy bay đi Úc. Chúng tôi ở đây được hai ngày. Ngày nào cũng được cho ăn
uống đàng hoàng, và món ăn rất sạch
sẽ.
Hai
ngày sau, một buổi sáng, xe bus đến nơi chở chúng tôi ra phi trường. Ui chao,
lần đầu tiên tôi thấy phi trường Bangkok quá rộng lớn và quá sang trọng. Đi đến
đâu cũng toàn thấy những hàng quán đèn điện sáng trưng, ai cũng tỏ ra sang trọng
và lịch sự. Ngay cả mấy người cảnh sát cũng rất thân thiện. Nhưng chúng tôi
không được rời hàng, mà phải đi theo người hướng dẫn cứ như là đàn cừu theo
người chăn cừu vậy. Hôm đó tôi diện một bộ đồ, quần tây đen, áo sơ mi trắng, và
mang đôi dép. Lúc ra phi trường mới thấy mình quá "quê mùa" vì ai cũng mang
giầy! Nhưng tôi và nhiều người cùng cảnh ngộ lúc đó lấy tiền đâu mà mua giầy.
Bây giờ nếu có được tấm hình hôm tôi và đoàn tị nạn ra phi trường chắc là thú vị
lắm.
Ngồi
trong phòng chờ đợi ở phi trường, trong lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Lúc
đó, tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chính phủ Thái
Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên biển Đông, nhưng
dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhất, và
vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái
Lan. Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui là vì tôi biết sắp tới đây mình sẽ
được tự do, được sang một xứ sở mà tôi nghĩ chắc văn minh lắm, hiện đại lắm, và
nhất là không còn bị giam cầm trong các trại tị nạn nữa. Nhưng cũng lo thầm,
chẳng biết mình sẽ làm gì với cái khả năng nửa mùa của mình trong một xứ sở như
thế.
Lên máy bay đi tị nạn. Thời đó máy bay còn cho
hút thuốc lá! Nguồn:
panatnikhom.blogspot.com
Chúng
tôi được nhân viên ICM "lùa" lên chiếc máy bay khổng lồ (mà sau này tôi biết là
Boeing 747) thuộc hãng hàng không QANTAS của Úc, và được sắp xếp ngồi ở những
hàng ghế sau cùng trong máy bay. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được đi máy
bay to lớn như thế. Đang suy nghĩ miên man thì chiêu đãi viên mang đến cho chúng
tôi khăn lau mặt thơm phức và li nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều
tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã
thật sự xúc động, và ngạc nhiên không hiểu sao họ lại tử tế với mình như thế.
Tôi nhận ra rằng mình đã đến thế giới văn
minh.
Ngày 20 tháng 4 năm 2017
T.M.T.
Viết trong cuộc hành trình về Trại tỵ nạn Songkhla,
đảo Koh Kra và Trại tỵ nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng
4-2017.
__________
(*) Những câu thơ trong bài
của tác giả Trần Mộng Tú.
EmoticonEmoticon