Xin hân hạnh giới thiệu bài "Hành trình Tình Thương" của tác giả Trần Hoài Thư, do Nhà văn Ngô Thế Vinh gửi cho tôi. Bài viết mô tả quá trình hình thành và phát triển của nguyệt san Tình Thương do nhóm sinh viên y khoa Sài Gòn trước 1975 thực hiện, có rất nhiều tư liệu quí hiếm mà tôi nghĩ những ai từng lớn lên thời trước 1975 ở miền Nam đều ít nhiều biết đến. Tôi chưa có cơ duyên gặp Trần Hoài Thư ngoài đời, nhưng đã đọc rất nhiều bài viết của anh trước đây. Anh là người có công lớn trong việc phục hồi những tác phẩm văn học trước đây bằng công nghệ IT. Đó là một công việc chẳng ai cám ơn nhưng ai cũng ghi ơn. NVT
HÀNH TRÌNH TÌNH THƯƠNG
TRẦN HOÀI
THƯ
Lời Giới Thiệu: nhà văn Trần Hoài Thư, sĩ quan Thám kích Sư
đoàn 22 Bộ binh, rồi Phóng viên chiến trường 3 lần bị thương năm nào, sau những
năm tù đầy, từ ngày vượt biển rồi sang định cư tại Hoa Kỳ,
anh Trần Hoài Thư từ 2001 đã cùng với các bạn văn bền bỉ âm thầm làm việc trong
bao nhiêu năm nhằm phục hồi di sản Văn học Miền Nam 54-75 đang bị phá
huỷ.
Nói tới sinh hoạt Văn Học Miền Nam 54-75, cũng phải kể
tới các phong trào báo chí sinh viên nở rộ từ các phân khoa Đại học Miền Nam
thời bấy giờ. Riêng trường Y khoa Sài Gòn, có tờ Nguyệt san với
manchette Tình Thương: "cơ quan tranh đấu văn hoá xã hội của sinh viên Y
khoa", tờ báo đã hoạt động mạnh mẽ được ngót 4 năm, với số ra mắt tháng
01.1964 và số cuối cùng 08.1967 báo bị đình bản.
Đúng 50 năm kể từ số báo cuối cùng của Tình
Thương, một tin vui đến từ Thư Quán Bản Thảo, trong một nỗ lực phải nói là phi thường, qua
hệ thống interlibrary loan, anh Trần Hoài Thư đã hy sinh rất nhiều công sức và
cả tốn kém tiền bạc để có thể sưu tập lại được gần trọn bộ báo Tình Thương, đồng
thời cũng qua bộ Tình Thương, 11 chương sách tác phẩm Nuôi Sẹo của nhà văn Triều
Sơn đã được phục
hồi.
Được tham gia sinh hoạt làm báo Tình
Thương từ số đầu tiên cho tới khi báo đình bản, tôi thay mặt các anh em trong
nhóm Tình Thương, các đồng môn Y khoa cám ơn nỗ lực của Thư Quán Bản Thảo và trân
trọng giới thiệu bài viết HÀNH TRÌNH TÌNH THƯƠNG của nhà văn Trần Hoài Thư, như
một cái nhìn từ bên ngoài đối với Tình Thương, một tờ báo của Sinh viên Y khoa
từ hơn thế kỷ trước.
Ngô Thế Vinh
[Với độc giả muốn có được số báo Thư Quán Bản
Thảo 74 chủ đề đặc biệt về Nguyệt San Tình Thương, có thể liên lạc với nhà
văn Trần Hoài Thư qua eMail: tranhoaithu16@gmail.com hay địa
chỉ: 719 Coolidge Street; Plainfield, NJ
07062]
Bìa Tình Thương số ra mắt tháng 1-1964
Nguyệt san Tình
Thương số đầu tiên được ra đời vào đầu năm 1964, sau một cuộc
hội thảo sôi nổi của khoảng 50 sinh viên y khoa, thể theo lời kêu gọi của sinh
viên y khoa năm thứ 6 Trần Xuân Ninh. Cuộc họp này được ghi đầy đủ bởi Trần Xuân
Dũng, nguyên là thư ký tờ báo. Bài đăng trên tập san Y Sĩ số 184 tháng 1-2010 do
Hội Y sĩ Việt Nam tại Canada chủ trương chủ đề giới thiệu nguyệt
san Tình Thương được chúng tôi đăng lại ở phần
sau.
Có thể nói cuộc hội thảo này là một cái mốc quan trọng, chẳng những dẫn đến sự hình thành một tờ báo của sinh viên y khoa mà còn nói về một sự lên đường nhập cuộc của giới mà khi nhắc đến ít ai có thể ngờ:
... sinh viên y khoa vốn thường được người ngoài coi là chăm chỉ hạt bột, có khi cù lần, luôn luôn bận bịu học tập chứ không văn nghệ như các bạn văn khoa khác, vì họ sống trong một thế giới khác biệt chỉ biết có đau khổ và bệnh tật, mà nay lại ra khỏi ngưỡng cửa của Y Khoa để làm báo một cách rất trách nhiệm và dân chủ...
(Nghiêm Đạo Đại: Tập san Y sĩ
184)
Trang đầu của số đầu, nhóm chủ trương - dưới
tựa đề “Dựng” - ví sự có mặt của Tình Thươngnhư ngọn
lửa:
(...) Ngọn lửa đầu tiên đã thành hình, nhỏ bé
và lung linh. Ước nguyện thiết tha của chúng tôi là lửa sẽ không tàn mà càng
ngày càng lớn mạnh, và tất cả mọi người sẽ đem lại sinh lực cho
nó.
Tình Thương với hình thức trang báo khổ lớn
(Khổ tờ Văn Nghệ Tiền Phong), số trang thay đổi bất thường,
trung bình 60 đến 80 trang, với nhiều quảng cáo mà thân chủ cỡ “bự” như Catinat
Hotel, các hãng bào chế hay dược phòng, ngân hàng v.v… cho ta thấy tờ tạp chí
rất được ưu đãi về phần quảng cáo so với những tạp chí khác. Về nội bộ tổ chức,
số 1 ghi Chủ nhiệm: Phạm Đình Vy, Chủ bút: Nguyễn Vĩnh Đức, Tổng thư ký: Trần
Xuân Dũng, Thư ký: Nghiêm Sỹ Tuấn, Quản lý: Phạm Như
Bách.
Cần ghi nhận là cứ mỗi niên học là có sự thay
đổi ít nhiều trong tòa soạn, trị sự cũng như ban biên tập. Lý do một số người ra
trường, ra làm y sĩ ở các đơn
vị.
Để giúp quí bạn hình dung về lề lối tổ chức
nội bộ Tình Thương, chúng tôi xin chụp và đăng lại hai bản
tin về cuộc họp khoáng đại chọn những người phụ trách và bộ biên
tập Tình Thương. Phải nói đây là một sự sinh hoạt thể hiện
tinh thần dân chủ và trách nhiệm khó tìm thấy trong làng báo ở
VN.
Đây là bản tin về cuộc họp sau khi Tình Thương có mặt được 9 số:
Những số đầu, qua những chủ đề đặc biệt về y
khoa như “Niềm đau nỗi khổ”... (số 3-4 tháng
3-4,1964), đối thoại trong y học (số
5), Tình Thương thường đề cập đến những vấn đề
liên quan đến giáo dục văn hóa, đặc biệt là ngành y khoa. Ví
dụ:
Tại sao sinh viên có quyền và có bổn phận
trình bày ý kiến về những vấn đề giáo dục?
Giáo dục y khoa ở Việt Nam đi về đâu?
Giáo dục y khoa ở Việt Nam đi về đâu?
Bao giờ tiếng Việt được dùng để giảng dạy ở
trường Y khoa đại học?
Thế nào là vai trò căn bản của người y học trong xã hội?
Thế nào là vai trò căn bản của người y học trong xã hội?
Làm thế nào để thích ứng y học tây phương vào văn minh và văn hóa VN?
Đối thoại giữa bệnh nhân và người y
học.
Người y khoa nghĩ gì trước những vấn đề y học
liên quan đến đạo đức xã hội: giáo dục sinh lý, kiểm soát sinh sản, phòng ngừa
thụ thai, sự phá
thai?
Bìa Tình Thương số 6 (tháng
6, 1964)
Kể từ số 6, nội dung Tình
Thương bắt đầu chuyển vào con đường đấu tranh chính trị với bài
viết: Bức thư ngỏ kính gởi ông R.M. Namara, Bộ trưởng Quốc phòng
Hoa kỳcủa Phạm Đình Vy... Từ đây, những bài có tính cách đấu tranh xuất
hiện, càng lúc càng quyết liệt, càng nặng ký, trong khi Saigon càng ngày càng
sôi sục tiếng đả đảo hoan hô và khói lựu đạn cay... Cao điểm là những cuộc biểu
tình của sinh viên vào tháng 8, 9, 10, 11 phản đối chánh phủ Trần văn Hương, đòi
hủy bỏ Hiến Chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh. Từ những số báo của năm 1964 trang
giấy ít thấy bôi đen, thì bước vào năm thứ hai – 1965 – càng lúc càng bị những
trận mưa “bom chì” trải thảm rớt xuống trên những trang Quan điểm, Nhận định, Sổ
tay, Phóng sự tạo nên những “ hố bom” cày nát lỗ chỗ màu đen, có khi thưa có
khi dày đặc...
Ngay cả trang đầu với bài viết ăn mừng ngày sinh nhật một tuổi cũng bị trải thảm “bom bi”:
Để giúp quí bạn có thể hiểu tại
sao Tình Thương lại được chiếu cố tận tình như
vậy, sau đây là những chủ đề hoặc những vấn đề mà TT đề cập trong năm 1965,
1966:
Số 15: Khả năng viện trợ Mỹ và tình trạng chậm
tiến của
VN
Số 16: Hòa bình hay chủ bại
Số 17: Những vấn đề thanh niên
Số 18: Thanh niên hướng về nông thôn. Chính trị và dân chủ. Nền tự trị đại học...
Số 20: Kỷ niệm năm thứ hai Ngày Tranh đấu của sinh viên thanh niên.
Số 17: Những vấn đề thanh niên
Số 18: Thanh niên hướng về nông thôn. Chính trị và dân chủ. Nền tự trị đại học...
Số 20: Kỷ niệm năm thứ hai Ngày Tranh đấu của sinh viên thanh niên.
Số 21: Những vấn đề trọng đại của quốc
gia
Số 22: Quân đội và chính trường
Số 23: Viễn ảnh chính trị miền Nam
Số 24: Số đặc biệt Đại Hàn: Chiến tranh và hòa bình
Số 22: Quân đội và chính trường
Số 23: Viễn ảnh chính trị miền Nam
Số 24: Số đặc biệt Đại Hàn: Chiến tranh và hòa bình
Bước vào năm 1966, những chủ đề
của Tình Thương càng nặng ký
hơn:
Số 25: Vấn đề chủ quyền VN – những sự thật về
Fulro
Số 28: Nông thôn Việt Nam và công thức Kibbutz
Do Thái
Số 29: 96 phút với Thượng tọa Trí Quang
Số 29: 96 phút với Thượng tọa Trí Quang
Những cái “nổi bật nhất” của Tình
Thương...
- Là tạp chí duy nhất đăng truyện dài Nuôi Sẹo
(mời đọc đoạn triển khai “Tình Thương và giá trị văn học” ở phần
sau)
- Là tờ báo đi bài thơ tình của Lý thị Kim Xương mà theo ý của chúng tôi, đây là bài thơ tình rất hay trong số những bài thơ tình của miền Nam. Không phải riêng tôi mà còn có cả một vị bác sĩ “mê” bài thơ này đến nỗi phải thuộc lòng, để nửa thế kỷ sau, vẫn còn nhớ rành rành chép lại để thiên hạ cùng đọc. Nếu nhớ thơ của Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương ... thì không nói làm gì, nhưng đây lại là bài thơ của người học trò 17 tuổi !.
(Xin đọc bài hồi ký của bác sĩ Đỗ Hữu Tước
đăng ở phần sau).
Trên Tình
Thương không đăng hình của Lý thị Kim Xương, nay chúng tôi có
được, xin được đăng để các cựu sinh viên y khoa từng “mê” thơ Lý thị Kim Xương
ngày xưa thấy được dung nhan của một nhà thơ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh. (Nhà thơ
nữ Lý thị Kim Xương từ giã cõi đời khi tuổi nàng còn xuân sắc!)
Tấm hình chân dung này được in cùng với bài
thơ XIN EM NHÌN VỀ QUÊ HƯƠNG trên tạp chí VĂN NGHỆ MIỀN TÂY số ra Mùa Xuân
1968 tại Cần Thơ. Tạp chí nầy do NGŨ LANG chủ biên và HUYỀN VÂN THANH làm Tổng
Thư Ký tòa
soạn.
Cám ơn Tình Thương đã đăng một bài thơ
hay.
thư cho
anh
Về NG. NG. TH
Về NG. NG. TH
S.V.Y.K
Anh nghĩ gì khi người ta nói yêu
em?
Khi trời mưa người ta đưa em đến
trường?
người ta bảo người ta thường hay khóc
vì em nhìn người ta quá dửng dưng.
người ta bảo người ta thường hay khóc
vì em nhìn người ta quá dửng dưng.
Chủ nhật người ta đi xem lễ
anh nghĩ gì khi người ta ngồi gần em?
người ta đọc kinh khe khẽ
em nghe người ta đọc tên em.
Mai nhớ về thăm em nghe anh!
cho người ta hiểu em không sống một mình
nếu người ta yêu thì phải yêu hai đứa.
(yêu em và yêu anh).
Người ta yêu em anh có buồn không?
nhỡ một mai em gọi người ta bằng chồng
anh có còn yêu em không nhỉ?
(chết ! - người ta đang nhìn em ngoài song)
LÝ THỊ KIM XƯƠNG
(bức số 2 trong “Những bức thư không gửi”)
(NS Tình
Thương số 13 tháng
1-1965)
- Không có một tờ báo nào ở SG trước 1975 lại
được tướng Nguyễn Ngọc Loan – bấy giờ là cục trưởng cục An Ninh – ưu ái nhiều
như nguyệt san Tình Thương: sự ưu ái này được biểu lộ bằng
cách kê nòng súng vào màng tang của một sinh viên trong nhóm chủ trương (mời đọc
bài hồi ký của Vũ Thiện Đạm) hoặc được phe biểu tình (Hố Nai)
– phe nổi lửa đốt trụ sở Tổng hội sinh viên SG ở đường Duy Tân – chiếu cố khiến
“anh em phải đóng cửa sắt tránh đối đầu đám đông giận dữ” (Mời đọc bài của Đỗ
Hữu
Tước).
- Không có tờ báo nào “cao ngạo” xem chính
quyền là “ne pas” như tờ báo Tình Thương. Ngay cả ông tổng
trưởng cũng coi chẳng ra gì như lời cáo lỗi dưới
đây:
- Không có tờ báo sinh viên nào lại có tòa
soạn riêng, và được bày bán trên sạp báo, được đón nhận nồng nhiệt bởi quần
chúng như Nguyệt san Tình Thương và Phụ
bản Tình Thương.
- Là tạp chí duy nhất đăng bài phỏng vấn Thượng tọa Trí Quang (số 29), Nguyễn Chánh Thi (số 19), tuy nhiên Tình Thương công khai chống lập trường của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc (Tình Thương số 10)... Qua bài phỏng vấn Thượng tọa Trí Quang, chúng ta được biết thêm là trước khi tổ chức bất cứ cuộc biểu tình nào, Thượng tọa Trí Quang đều đến gặp đại sứ Cabot Lodge.
- Là tạp chí duy nhất đăng bài phỏng vấn Thượng tọa Trí Quang (số 29), Nguyễn Chánh Thi (số 19), tuy nhiên Tình Thương công khai chống lập trường của Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc (Tình Thương số 10)... Qua bài phỏng vấn Thượng tọa Trí Quang, chúng ta được biết thêm là trước khi tổ chức bất cứ cuộc biểu tình nào, Thượng tọa Trí Quang đều đến gặp đại sứ Cabot Lodge.
(TT số 29)
Bìa Tình Thương số
29 (phong vấn
TT. Trí Quang)
- Dù là báo sinh viên nhưng tầm mức của nó có
thể ngang hàng với tờ báo chuyên nghiệp ngoại quốc. Những chủ đề thời sự nóng
hổi như FULRO, hay Phật giáo miền Trung được tòa soạn cử phái viên đến tận nơi,
để tìm hiểu cặn kẽ... Ngay cả có mặt trong Kibbutz Do Thái cả tháng làm phu hái
cam để viết bài cho chủ đề “Nông thôn VN và công thức Kibbutz” (Đường Thiện
Đồng: Bốn tuần trong Kibbutz - Tình Thương số
28)
Bìa Tình
Thương số 28 (Nông thôn Kitbutz Do Thái)
- Không có tạp chí nào mà những người trong
nhóm chủ trương hay trong ban biên tập, khi làm báo là chống đối chánh quyền
mạnh mẽ nhưng khi ra trường Y khoa lại chọn những binh chủng dữ nhất mà đầu quân
như Lực lượng đặc biệt, Nhảy Dù, Thủy quân lục chiến, Biệt động quân. Trong số
những người này có Nghiêm Sỹ Tuấn – nguyên thư ký Tòa soạn. Y sỹ Nghiêm Sỹ Tuấn
chọn binh chủng Dù, và tử trận sau khi ra trường chưa được bao lâu. (Mời đọc hồi
ký của Trang Châu, Ngô Thế Vinh, Đỗ Hữu Tước, Bùi Khiết... đăng ở phần
sau).
“Chích”
Dĩ nhiên, nghề y đòi hỏi phải biết chích. Khi
thì vào cánh tay, khi thì vai, khi thì mông đít... Có lẽ vì quá quen đến công
việc chích này nên những biên tập viên phải ngứa tay khi cầm ngòi viết
chăng...Và cái chích của họ “đau”
thiệt.
Sự kiện này được một thành viên
của Tình Thương kể lại như
sau:
Trong
một bài luận cứ “Tính dục trong sinh hoạt tôn giáo” (chúng tôi đánh máy bài này và
đăng ở phần sau – Tòa soạn Thư Quán Bản Thảo ghi chú), anh
Bùi Thế mang phân tâm học của Sigmund Freud để bàn về hiện tượng các cô nữ sinh
thích đi nghe các thầy giảng và sinh hoạt. Bài viết gây chống đối rất nhiều,
nhất là với các cô bị tạm giam ở thành Ô Ma trong biến động Phật giáo. Anh em
Tình Thương bị gọi là giáo gian. Thế nhưng không phải phía Phật giáo mà Công
giáo trong cuộc biểu tình từ Hố Nai chống hiến chương Vũng Tầu cũng đến bao vây
tòa báo
vì bài viết của anh Hoành và Quỳnh. Khiến anh em phải đóng cửa sắt tránh đối đầu
đám đông giận dữ. (Đỗ
Hữu Tước: Tình thương ngày tháng cũ, Tập san Y Sĩ số184 tháng 1-2010)
Trên đây chỉ về mặt tôn giáo, còn về phía chính quyền thì càng “dữ dội” hơn. Người chủ trương bị kêu lên Cục An Ninh và bị kê nòng súng vào màng tang:
Một
buổi chiều cuối thu 1964, Sài Gòn sau Cách mạng 11/1963,
lá ngoài đường không rụng nhiều và trên không cũng chẳng có những đám mây bàng
bạc như trong truyện Quê Mẹ của Thanh Tịnh, tôi và anh Đức đang ngồi trong
tòa soạn,
bỗng có một chiếc xe cảnh sát mà người dân Sài Gòn gọi là “xe cây” đỗ xịch trước
cửa Tòa soạn. Hai tên công an mặc thường phục bước vào cửa rồi lớn tiếng hỏi ai
là Vũ Thiện Đạm và Nguyễn Vĩnh Đức. Chúng tôi ngạc nhiên nhưng cũng điềm tĩnh
trả lời. Một tên nói: “ Các anh theo tôi về Cục An Ninh có việc “ Chúng tôi hỏi:
“Việc gì?” Tên thứ hai trả lời một cách hỗn xược: “Đến đó thì biết, đừng có
nhiều lời”. Chúng tôi theo chúng lên xe cây để về Cục An Ninh, không cách
xa tòa
soạn lắm, ngay trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần Sở thú
Sài Gòn. Chúng tôi ngồi đợi ở phòng dưới nhà, lẳng lặng không nói với nhau một
lời vì có những tên công an khác đi quanh canh chừng. Một lúc sau, một tên công
an từ trên gác xuống gọi chúng tôi lên trình diện ông Tướng An Ninh. Cửa phòng
mở, ông Tướng đã chờ sẵn, ông dáng người gầy ốm, mặc quân
phục với Jacket chống đạn. Ông Tướng ngồi trên ghế bành, hai chân với bottes de
saut gác lên bàn, với khẩu súng lục nòng ngắn quay chung quanh ngón tay trỏ phải
kiểu cao bồi. Ông ta cho biết là báo Tình Thương đã có nhiều bài viết không đúng
đường lối cách mạng và ra lệnh cho chúng tôi từ nay phải sửa lại đường lối viết
lách cho hợp với đường lối của chính phủ đương thời, nếu không ông bắn bỏ thì
hối cũng không
kịp.
Cũng nên nhắc lại là ông Tướng tuy là người
Việt nhưng lại dùng toàn“tiếng Đức” của “các tay anh chị” khi nói với chúng
tôi.
Và để cho thêm phần “uy tín”, ông ta lấy khẩu
súng lục nòng ngắn dí vào màng tang của anh Đức và tôi và dặn: “nhớ nghe
con”.
Có lẽ bốn năm sau (1968), khẩu súng này đã
được dùng để kết liễu đời của tên đặc công Cộng sản với hai tay bị trói ra đằng
sau. Hình ảnh cuộc hành quyết này đã được một phóng viên Mỹ ghi lại và phổ biến
khắp thế giới và đã làm dư luận quần chúng Mỹ cũng như dư luận thế giới có ý
kiến bất lợi cho cuộc chiến tranh Việt
Nam.
Cho đến bây giờ tôi mới được biết là hai anh
Ngô Thế Vinh và Phạm Đình Vy cũng được diện kiến ông Tướng An Ninh trong hoàn
cảnh tương tự. (Vũ
Thiện Đạm)
Đọc đoạn hồi ký trên, chúng ta sẽ đặt câu hỏi
tại sao ông tướng An Ninh trên lại đặc biệt quan tâm đến tờ Tình Thương như vậy?
Cái việc này do Sở Kiểm duyệt lo giùm cho ông mà. Nhưng nếu đọc kỹ trên số báo
20, trong bài Đối thoại với chính quyền, ta thấy cái “chích”
của các anh bác sĩ tương lai này quả là “đau” và “thấm” hết chỗ nói khi anh ta
“lên lớp”:
Câu hỏi: “Vậy ai để râu đây?” Chỉ có tướng Kỳ
chứ ai trồng khoai đất này!
Thêm một cái “chích” nữa. Không phải râu mà là ... gạo:
Thêm một cái “chích” nữa. Không phải râu mà là ... gạo:
Ngay cả cụ Thủ tướng Hương cũng
bị Tình Thương mang ra mà “chích”, trách gì tờ
phụ bản này bị cảnh sát rảo khắp các sạp báo tịch thu là phải! Nhưng TQBT lại
có nó, xin đăng để bà con thấy cái “chích”
này:
Người dân miền Trung: ông Thủ Tướng Hư...Ương...ôi!
Thủ Tướng H.: Khoan! Khoan! Để Qua diệt cái
tụi Sanh viên này
đã!
(Tòa soạn TQBT ghi chú: Phụ bản này bị hốt
trọn. TQBT may mắn có được nên chụp nguyên trang bìa để cống hiến quí
bạn.)
Sự thành công của Tình
Thương:
Báo Tình
Thương được hình thành không phải do từ một nguồn tài trợ hay
bảo trợ nào như tạp chí Sáng Tạo (từ Phòng Thông Tin Hoa Kỳ), Hiện Đại (từ BS
Trần Kim Tuyến), Nghệ Thuật (từ Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ), mà do từ sự tự
lực, tự cường của những người trẻ chủ trương. Họ đi tìm nguồn quảng cáo. Họ mang
báo đi bán ở các trường học. Họ cải tiến không ngừng biến tờ báo mang tiếng là
của sinh viên y khoa nhưng thật ra dành cho cả giới thanh niên sinh viên và
những người thao thức đến vận mệnh của đất nước. Họ áp dụng tinh thần dân chủ
trong việc điều khiển tờ báo. Mỗi năm, tòa soạn họp khoáng đại để bầu lại ban
chủ trương và ban biên tập cho nhiệm kỳ mới. Tòa soạn thường xuyên tổ chức những
buổi sinh hoạt nội bộ để những người cộng tác có thể gặp gỡ thân mật, cởi mở.
“Chính sự sinh hoạt tập thể đã làm trơn tru cá nhân trước khi họ được ném vào
guồng máy nhịp nhàng đồng đội” (xin xem bản tin tường thuật buổi
họp Tình Thương vào năm thứ hai, thứ ba chúng
tôi vừa trích ở phần
trên).
Ngoài xã hội, tình hình chính trị thì rối ren,
hàng ngũ sinh viên thì phân tán, đại học thì đóng cửa bãi khóa, dĩ nhiên trong
nội bộ của báo Tình Thương cũng bị ảnh hưởng không ít thì nhiều. Nhà văn Ngô Thế
Vinh nói về sự dị biệt này và giải thích tại sao Tình
Thương lại vượt qua
:
... Ngay trong nội bộ tòa soạn, mặc dầu có
nhiều khuynh hướng rất khác nhau đôi khi cả đối nghịch nữa, đưa tới những cuộc
tranh luận gay gắt kể cả bút chiến công khai tưởng như có thể gây đổ vỡ nhưng do
nơi ý thức trách nhiệm đối với sự sống còn của tờ báo, biểu tượng cho sinh hoạt
dân chủ nên cuối cùng thì chúng tôi vẫn đi tới được sự dung hợp với một mẫu số
chung rộng rãi: tờ báo luôn luôn như một “open forum/ diễn đàn tự do” của những
quan điểm khác nhau về mọi vấn đề chính trị, giáo dục và xã hội. (Ngô Thế
Vinh)
Đó là lý do tờ báo không phải chết vì hết tiền
như Sáng Tạo, Hiện Đại, Nghệ Thuật, hay Khởi Hành mà chết vì bị rút giấy phép,
trong khi số lượng phát hành càng ngày càng cao, đến nỗi phải xin phép biến tờ
báo từ nguyệt san thành bán nguyệt san (nhưng đơn xin phép bị chìm xuồng mà
không một lời giải
thích!)
Tình Thương và giá trị văn học hiếm quí
Nguyệt san Tình Thương có một truyện dài đăng
nhiều kỳ. Đó là “Nuôi Sẹo”. Nhà văn Ngô Thế Vinh giới thiệu truyện này như
sau:
... Riêng tiểu thuyết Nuôi Sẹo thì còn ở dạng
bản thảo, báo Tình Thương đăng chưa hết thì bị đình bản và bản thảo duy nhất
viết tay ấy thì nay đã bị thất lạc. Triều Sơn chết rất trẻ ở cái tuổi 33 [1921-
1954]. Hy vọng qua số báo chủ đề của Tập San Y Sĩ, với những số báo Tình Thương
còn tìm thấy, từng trang sách tiểu thuyết Nuôi Sẹo sẽ được nối kết lại – cho dù
chỉ còn là một tác phẩm dở dang nhưng đó vẫn là một mảng văn học độc nhất vô nhị
của một thời kỳ biến động nhất của đất
nước.
Trên Văn số 34 chủ đề Truy niệm Triều Sơn,
phát hành vào ngày 15-5-1965, Nuôi Sẹo được nhắc nhở trong phần tiểu
sử:
Tác
phẩm căn bản là Nuôi Sẹo. Viết lần thứ nhứt trong không khí sắt lửa, tiểu thuyết
đã in ra theo thể thức phơi-dơ-tông(feuilleton), trong tờ Kháng-chiến (1947).
Năm 1949, viết lại theo một quan niệm khác, vài chương đã được đăng trong tập
Nhà Văn hiện đại. Sang Paris Nuôi Sẹo lại “bị viết lại” ba lần nữa. Một lần
theo thể tài “bích họa” như bộ Chiến-tranh và Hòa bình của Tolstoi. Một lần theo
thể tài của Colomba của nhà văn Pháp Prosper Mérimée. Và một lần thứ ba dụng
những kỹ thuật tiểu thuyết mới nhứt của Âu-Mỹ.
(Huân
Phong)
(nguồn: tạp chí Văn số 34 ngày 15-5-1965 số
đặc biệt truy niệm Triều
Sơn)
-
“ Ngoài cái mộng triết học, anh còn có cái mộng văn nghệ.
“Nuôi Sẹo”
đã được anh ấp ủ từ lúc còn ở thế giới bên kia, anh mang nó về
Hà Nội
và nó theo anh từ Bắc vô Nam, từ Nam sang Pháp sang Phi Châu rồi trở về Pháp.
Anh dùng nhân vật chính : một tên khố rách trong một làng ở Bắc Việt để tả cái
xã hội phong kiến thực dân lúc Pháp tàn tạ và cho thấy một quan niệm về cuộc
đời.
“Anh thận trọng đến nỗi viết đi viết lại, bỏ, sửa, bớt, thêm từ gần 1000 trang rút lại độ 500, rồi còn cho là dài, đang sửa gọt cho còn 300 trang mới cho xuất bản. Nhưng cơn bịnh ngặt nghèo đã không cho phép anh làm xong !”.
“Anh thận trọng đến nỗi viết đi viết lại, bỏ, sửa, bớt, thêm từ gần 1000 trang rút lại độ 500, rồi còn cho là dài, đang sửa gọt cho còn 300 trang mới cho xuất bản. Nhưng cơn bịnh ngặt nghèo đã không cho phép anh làm xong !”.
... Để các bạn biết anh “nuôi” “Nuôi Sẹo” như thế nào, tôi có lần vào thăm nơi anh ở, thấy những chữ “Nuôi Sẹo” đầy cả tường và đủ các lối chữ! Đó là một lối nhắc mình chẳng thể quên, một lối nằm gai nếm mật mới.
“Thế
mà mộng viết: “Triết lý triết học” (La philosophie des philosophies) đành tan
vỡ, mà cái mộng hoàn thành “Nuôi Sẹo” cũng dở
dang”.
NGUIỄN
NGU-Í
(nguồn: tạp chí Văn số 34 ngày 15-5-1965 số
đặc biệt truy niệm Triều
Sơn)
Với một nhà văn “lớn lao” (theo Đặng Tiến) như
vậy, nhưng có mấy ai nhắc sau khi ông chết tại Paris? Có mấy ai chịu khó sưu tầm
những di cảo bị thất lạc hay đăng rải rác trên các báo? Tháng 5, 1965, tạp chí
Văn có làm một số đặc biệt về Triều Sơn, có nhắc đến Nuôi Sẹo như là một tác
phẩm để đời nhưng không có một trang – dù chỉ một trang Nuôi Sẹo. Chỉ có tờ Tình
Thương là tạp chí duy nhất đăng truyện dài Nuôi Sẹo (dù không đầy
đủ).
Hiện nay, theo nhà văn Ngô Thế Vinh cho biết, ông chỉ có mỗi một số Tình Thương (số 9) để dùng làm văn liệu cho chủ đề Tình Thương nhân bản của tập san Y sĩ tại Canada, trong đó có một chương của Nuôi Sẹo.
Hiện nay, theo nhà văn Ngô Thế Vinh cho biết, ông chỉ có mỗi một số Tình Thương (số 9) để dùng làm văn liệu cho chủ đề Tình Thương nhân bản của tập san Y sĩ tại Canada, trong đó có một chương của Nuôi Sẹo.
Chúng tôi hiện đã sưu tập được 11 chương của
Nuôi Sẹo. Hy vọng TQBT số tới chúng tôi sẽ phổ biến cùng lúc với TQBT chủ đề
Triều Sơn.
Tình Thương và người lính VNCH
Đối với người lính VNCH, Tình
Thương luôn luôn bày tỏ lòng biết ơn. Điều này được thể hiện
qua nhiều bài vở từ nhận định hay qua hai lá thư đăng trên hai số báo dưới tựa
đề “Lá thư gởi ra tiền tuyến” ký bởi Tình
Thương:
... Lớp người thanh niên ấy từng giờ từng phút
đang chiến đấu và hy sinh. Chúng tôi muốn nói đến các anh, những chiến binh đang
xông pha ngoài mặt trận. Chúng tôi đã gặp các anh không phải ở những buổi hành
quân các anh hăng say giết giặc cũng không phải những lúc các anh về hiên ngang
vòng hoa chiến thắng mà chúng tôi gặp các anh quằn quại, rên xiết ở các bệnh
viện Chợ Rẫy, Cộng Hòa với những vết thương lở lói bê bết máu. Chúng tôi đã từng
đau lòng cắt bỏ từng cánh tay, từng khúc chân để biến các anh thành những phế
nhân vĩnh viễn. Chúng tôi cũng đã từng ngậm ngùi, bất lực nhìn một số các anh bị
tử thần cướp mang
đi.
(Tình Thương số 14 tháng
2-1965)
Trong thư thứ hai, Tình Thương
viết:
... Xương máu của các bạn đã đổ ra quá nhiều để gìn giữ mảnh đất tự do này, đáng lẽ sự hy sinh to tát ấy phải được đền bù bằng một sự cảm phục, lòng biết ơn thì một lớp người tay sai của bọn Cộng Sản đã có hành động phủ nhận công lao chiến đấu của các bạn ...
(Tình Thương số 16 tháng
4-1965)
Sự tri ân, nỗi đau đớn này được biểu lộ qua
những lời phân ưu đầy thống
thiết:
**
hay qua bài viết đầy cảm động “Nhớ anh Đỗ
Vinh” của Phạm Bá Lương đăng trên Tình Thương số
17:
Nhớ Anh ĐỖ
VINH
Phạm Bá Lương viết
La guerre, ce n’est pas l'acceptation du
risque, Ce n'est pas l'acceptation du combat. C'est, à certaines heures, pour le
combattant, l'acceptation pure et simple de la
mort.
A. de SAINT EXUPERY (Pilote de
guerre)
Tôi được tin Anh chết vào một buổi sáng qua
mục “Tin Buồn” của một tờ
báo.
Tôi ngỡ ngàng và nghi ngờ. Nhưng không, mấy
dòng chữ... Cố Y sĩ Đại úy Đỗ... thật rõ ràng và khủng khiếp. Hay nhà báo in
sai? Vì lẽ nào được, tôi vẫn tin - có thể vì ích kỷ - rằng tai họa chỉ gieo
xuống cho ai kia xa lạ chứ. Rồi trong một hành động vô thức, tôi làm dấu và cầu
nguyện cho Anh, dù vẫn biết: Anh không cùng tôn giáo với tôi. Nhưng giờ phút này
tôi làm gì hơn được cho Anh? Đau đớn và kinh hoàng quá! Tôi tìm ông đơn vị
trưởng, xin phép về gặp Anh lần chót. Đề nghị của tôi được thỏa mãn. Về tới nơi,
tôi cũng chẳng còn may mắn hơn thầy Anh. Anh đã nằm yên trong lòng
đất.
oOo
Mới một ngày nào không xa, Anh và tôi chia tay
nhau. Tôi khoác áo chiến của người bộ binh. Còn Anh, gia nhập đoàn quân mũ đỏ
cho thỏa ước nguyện hải hồ. Anh thường nói Anh ưa thích những xê dịch liên tục
và không định hướng. Nay Cà Mau, mai Bến Hải. Anh và các bạn Anh có mặt khắp
nơi, ở những vùng an ninh bị đe dọa nhất để tìm địch, diệt địch. Tôi ở đây, nơi
tiền đồn, cũng không thiếu gì pháo kích, bắn sẻ hay ám sát. Rủi ro rình rập
chúng mình từng giây từng phút, nhiều khi sống chết chỉ còn trong gang tấc,
nhưng chưa bao giờ tôi quên nghĩ tới Anh, theo rõi bước Anh đi qua những lá thư
viết vội.
Tôi vẫn nhớ trong những buổi nói chuyện của
bọn mình, Anh và tôi có thể có những bất đồng về nhiều điểm, nhưng đứng trước
cuộc chiến tranh này thì chúng mình luôn luôn có chung một ý kiến: phải chiến
đấu và chiến thắng. Chúng mình không có quyền chạy trốn lịch sử. Chúng mình
không thể di cư một lần thứ hai. Tôi tiếc cho Anh, vào lúc cuộc đọ sức giữa ta
và địch tới giai đoạn quyết liệt mà thành công đã ló sáng thì Anh vội vã ra đi,
theo bước một Đoàn Mạnh Hoạch, một Trương Bá Hân. Máu Anh đã đổ, chứng tỏ sự có
mặt của bọn mình trong những khó khăn của ngày hôm nay. Sự kiện ấy cũng nói lên
cho mọi người biết những người trai lớp tuổi chúng mình nhất quyết nhập cuộc và
say sưa làm tròn bổn phận. Định mệnh thật quá trớ trêu, cướp đi ở Anh sự vui
tươi ham sống trong lúc tuổi tác chưa đè nặng trên vai Anh. Mảnh đạn vô tình
quên đi rằng sự có mặt của Anh là cần thiết cho người khác. Trước sau bàn tay
Anh có bao giờ làm nổi một tội ác. Cho tới phút chót, Anh gục ngã trong lúc đang
săn sóc thoa dịu đau thương cho một đồng đội. Với những người như Anh, chỉ lấy
yêu thương đổi lại với oán thù bất cứ từ đâu tới. Nhưng kẻ địch của Anh nào biết
thế. Họ làm tất cả vì mọi phương tiện đều tốt. - Anh chết đi, các đồng đội anh
tiếc nhớ Anh, chúng tôi thương khóc Anh, một vì sao vừa tắt...
oOo
Tôi tìm gặp Anh trong một chiều nhạt nắng,
không phải dưới mái trường xưa, cũng không phải trong một dạ hội, mà nghĩa địa
chiều nay, hoang lạnh quá. Những vòng hoa cuối cùng bắt đầu tàn úa, Anh và tôi
cách biệt nhau bằng một lớp đất. Những hình ảnh về Anh trở về tâm tư tôi rõ ràng
nhất. Bao năm tháng dài trong cùng một giảng đường, những ngày hè Vũng Tàu hay
những chiều đông Đà Lạt, bao giờ anh cũng đến với tôi qua nụ cười cởi mở và
những mẩu chuyện đằm thắm. Nhưng bây giờ sự mất mát thật to lớn và trọn vẹn.
Không còn gì ngoài một sự thật phũ phàng. Đó là sự chấp nhận giản dị và hiển
nhiên của cái chết ở nơi anh...
Bến Cát ngày 11-4-1965
PHẠM BÁ LƯONG
(Tình Thương số 17)
PHẠM BÁ LƯONG
(Tình Thương số 17)
★
Không ngờ chỉ 3 tháng sau, quân y sĩ Phạm Bá
Lương cũng theo bạn anh mà ra đi. Trên nguyệt san Tình Thương số 20 chúng tôi
thấy Tin Buồn báo tin Y sĩ Phạm Bá Lương đền nợ
nước:
Trên Tình Thương, chúng tôi cũng gặp được
những sáng tác của hai nhà thơ ngoài y khoa, cũng tử trận như trường hợp bác sĩ
Phạm Bá Lương. Đó là những di cảo hiếm quí mà chúng tôi cố công tìm bấy lâu nay.
Hai nhà thơ ấy là: Phan Huy Mộng và Nguyễn Phương Loan. Bài
thơ Người chết ở Pleime của Phan Huy Mộng đăng
trên Tình Thương số 28 tháng 4-1966 và trên Văn được bạn bè anh rất yêu
thích:
Thằng vũ chết rồi trong trận pleime đó
em
khủng khiếp và khốc liệt nhất
những lần về phép sau này ra cửa đón anh
em sẽ không bao giờ thấy nó
nó chết rồi
khủng khiếp và khốc liệt nhất
những lần về phép sau này ra cửa đón anh
em sẽ không bao giờ thấy nó
nó chết rồi
chết trong trận pleime cho quê
hương
đó – nó nằm đó – nó ngồi đó
những tràng súng do chính nó bóp cò, địch bóp cò...
những tràng súng do chính nó bóp cò, địch bóp cò...
cho tất cả chúng ta cùng chết trong trận giặc
chúng
ta...
Giống như y sĩ Phạm Bá Lương khóc y sĩ Đỗ Vinh
sau đó ít lâu thì tử trận, nhà thơ Phan Huy Mộng cũng vậy. Sau khi anh khóc bạn
anh chưa được ít lâu, anh cũng theo bạn mà ra đi...
Còn nhà thơ Nguyễn Phương Loan thì tử trận
trên căn cứ hỏa lực ở Pleime. Anh làm thơ rất nhiều nhưng ít chịu đăng thơ trên
báo. Tình Thương là một trường hợp ngoại lệ. Có đến ba bài thơ của anh. Nhà văn
Kinh Dương Vương viết về anh, như
sau:
...Dáng anh cao lớn và oai nghiêm, thoạt trông trẻ con hoảng sợ. Nhưng rồi chúng đến vây quanh anh thân ái, khi chúng nhìn thấy đôi mắt hiền, buồn như mắt của một nghé tơ và giọng nói nhẹ dịu lòng. “Các cháu lại đây với chú. Nào, lại đây với chú”
Anh hãy còn độc thân. Anh yêu một người con
gái, nhưng nàng không yêu anh, đã từ lâu, và anh còn yêu nàng mãi… Anh vẫn viết
thư thường xuyên cho nàng, những bức thư là những bài thơ tình tuyệt vời không
bao giờ có hồi âm.
Bạn tôi, anh là lính trận, nhưng cũng là một
thi sĩ. Tôi nghĩ rằng anh chỉ là một thi sĩ. Anh viết những bài thơ trong bụi
rậm, trên quyển sổ tay nhỏ, giấy bao thuốc lá hay những mảnh giấy vụn. Những bài
lục bát không bao giờ xuất hiện trên mặt báo. Nhưng cây lá, những cỏ mọn hoa hèn
và côn trùng – những chú dế nhỏ, cào cào, sâu bọ – biết qua giọng ngâm gợi cảm
của anh. Và vài người bạn thiết nhận được những bài thơ của anh từ những vùng
hành quân xa xôi.
Anh liên miên đi từ chiến trường này đến chiến trường khác...
Giữa mùa thu:
Tôi được tin anh đã trở lại chiến trường Pleime, nơi đó anh bị thương. Một mảnh thép đã len vào thân thể anh, nằm trong phổi khiến máu anh chảy ra nhiều cùng với những chiếc bong bóng màu hồng. Việc tản thương chậm chạp và anh đã bất tỉnh. Anh vào nằm bệnh viện và qua một cuộc giải phẫu.
Anh liên miên đi từ chiến trường này đến chiến trường khác...
Giữa mùa thu:
Tôi được tin anh đã trở lại chiến trường Pleime, nơi đó anh bị thương. Một mảnh thép đã len vào thân thể anh, nằm trong phổi khiến máu anh chảy ra nhiều cùng với những chiếc bong bóng màu hồng. Việc tản thương chậm chạp và anh đã bất tỉnh. Anh vào nằm bệnh viện và qua một cuộc giải phẫu.
Người bạn anh nhờ mang sách về cho tôi kể
chuyện:
Buổi sáng, anh tỉnh dậy sau cơn mê man suốt
đêm. Anh đã ngồi lên được và anh hút thuốc – thú vui duy nhất của anh đó mà.
Buổi trưa anh cảm thấy mệt nhiều. Anh đã nói với người bạn nhờ nhắn lại cho gia
đình tôi biết, nếu anh mệnh hệ nào. Đúng nửa đêm hôm
đó…
…
(Kinh Dương Vương – Bài thơ cho bạn tôi, nguồn: Internet)
Trong khi tờ báo của sinh viên bày tỏ thái độ quyết liệt đối với những kẻ phủ nhận công lao chiến đấu của người lính miền Nam, cúi đầu thương cảm những người thương binh Bắc cũng như Nam phải bị cưa tay, cưa chân ở bệnh viện, ngậm ngùi những người mà họ không thể cứu được thì trên tạp chí Vấn Đề do hai tên tuổi được xem như nhà văn “chống Cộng” hàng đầu chủ trương (Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan) lại đăng liên tiếp những truyện bôi nhọ thậm tệ màu áo người lính miền Nam của Ngụy Ngữ, xem những người thương binh là “bọn què quặt hết thời”, tả mỗi lần lính “rằn ri” về phố là cửa đóng then cài, ngay cả mang người chết là đại úy dù Nguyễn văn Đương ra mà bỡn cợt! Trong số những truyện này có truyện “Những con thú tật nguyền” của Nguyễn văn Ngữ tức Ngụy Ngữ (đăng trên Vấn Đề số 18) được dựng thành phim sau 1975!
…
(Kinh Dương Vương – Bài thơ cho bạn tôi, nguồn: Internet)
Trong khi tờ báo của sinh viên bày tỏ thái độ quyết liệt đối với những kẻ phủ nhận công lao chiến đấu của người lính miền Nam, cúi đầu thương cảm những người thương binh Bắc cũng như Nam phải bị cưa tay, cưa chân ở bệnh viện, ngậm ngùi những người mà họ không thể cứu được thì trên tạp chí Vấn Đề do hai tên tuổi được xem như nhà văn “chống Cộng” hàng đầu chủ trương (Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan) lại đăng liên tiếp những truyện bôi nhọ thậm tệ màu áo người lính miền Nam của Ngụy Ngữ, xem những người thương binh là “bọn què quặt hết thời”, tả mỗi lần lính “rằn ri” về phố là cửa đóng then cài, ngay cả mang người chết là đại úy dù Nguyễn văn Đương ra mà bỡn cợt! Trong số những truyện này có truyện “Những con thú tật nguyền” của Nguyễn văn Ngữ tức Ngụy Ngữ (đăng trên Vấn Đề số 18) được dựng thành phim sau 1975!
... Thành phố đang sinh hoạt bình thường. Chợt có tin lính rằn ri đổ đến, tất cả nhốn nháo sợ hãi và những cánh cửa tiếp theo nhau khép nhanh lại, chợ tan, người thưa thớt tới lui khép nép, khắp các đường lớn đường nhỏ không còn một bóng gái trai... (Ngụy Ngữ: Phố miền Nam - Vấn Đề 50 tháng 9-71).
Hoặc như truyện “chị Hà” cũng của Ngụy Ngữ, ca ngợi hết mình người chị “phe giải phóng”, xem những người thương phế binh mà Tình Thương bày tỏ lòng cảm phục vô biên là: “bọn lính què cụt hết thời đi cắm cọc chiếm đất”:
... Ở đó, với vô số máy thu thanh lảm nhảm từng ngày bây giờ, chị Hà được kể vào hàng ngũ những người lầm đường theo giặc ...
Chị Hà, như người cha và anh cả tôi, đã mất tích....
Chị Hà đã mất tích, đã lẫn mù vào đời sống
quay múa điệp trùng, đang ra sao ở một nơi nào đó. Có phải chị còn bên kia biên
giới Việt Lào, còn bên kia giòng phân chia Nam Bắc, đang răng cà tai căng đứng
ca hát trước đám dân Thượng, đang ngồi họp giữa những hội nghị cấp cao, súng
chạy băng băng theo một viên đạn vừa bắn ngay chóc vào thân tàu giặc ngang trời,
đang thoi thóp u ơ trong bệnh xá biên khu; hay đang khuất lấp hèn mọn giữa cái
miền nam tự do chen chúc mỹ hời này, còn bồng con ngồi ru hát đêm ngày chờ tin
dữ của người chồng vằn vện đang lăn lóc trên chiến trường Đông dương, còn mặc áo
đại tang đi đòi quyền sống, còn theo bọn lính què cụt hết thời đi cắm cọc chiếm
đất, hay đã ngã sấp xuống trong những vụ thảm sát máu me, đang ghẻ lở trong các
chuồng cọp chuồng beo... (Ngụy Ngữ: Chị Hà - tạp
chí Vấn Đề số
44)
- Ngay cả người sĩ quan Dù miền Nam mở chốt
lựu đạn tự sát trên đồi máu sau khi đồi bị tràn ngập thì cũng bị Ngụy Ngữ đem ra
mai mỉa bỡn cợt “anh chưa chết đâu
anh”.
... Không.
Vâng, không phải người ta quay lại cảnh khốn nạn đó để đám thanh niên Nam Việt
sợ không dám đầu quân đi lính để chết mất xác bên Miên bên Lào hoặc để lên án
cuộc chiến tranh phi nhân đang thiêu sống cả một thế hệ thanh niên trên khắp bán
đảo Đông Dương này, mà trái lại, là đang hỗ trợ thêm cho chiến tranh, đang vẽ
thêm một lớp sơn bóng ngời trên cái vóc dáng biệt kích của bọn lính Nam Việt, ve
vuốt vào cái kiêu hãnh bệnh hoạn của chúng, kéo chúng ở lại trong hàng ngũ để
bảo vệ cái dải
đất tăm tối hời mỹ này khỏi rơi vào "vòng nô lệ của Cộng Sản".
... Chuyện
kể lại cái chết của một tên sĩ quan dù tại mặt trận Hạ Lào, nhắc lại
thuở y
còn là một thiếu úy, thiếu úy dù đi xe gắn máy chồng ba bốn mạng một xe chạy
giữa phố Sài Gòn, tông nhằm một cô gái, cô gái nhận làm em gái hậu phương đi ca
hát gì đó cho
lính nghe rồi nhận làm vợ tên thiếu úy luôn,
tên thiếu úy lên
đại úy, tên đại úy đi trận sang Lào và mở lựu đạn chết khi căn cứ bị tràn ngập,
chết xong chưa yên chuyện lại còn hiện hồn mang mặt máu về đứng hát anh chưa
chết đâu em. (Vấn
Đề số 52 tháng 11-71)
Sự bôi nhọ rủa xả này nếu đến từ những tạp chí
thiên tả như Đối Diện, Trình
Bầy, Tự Quyết v.v... thì không nói làm gì,
nhưng những tờ báo trên chỉ chống Mỹ, chống chính quyền chứ chưa hề có một bài
nào bôi xấu người lính miền Nam, chỉ có duy nhất là mỗi một
tờ Vấn Đềmới đăng loại truyện như vậy. Mặt khác nếu Ngụy Ngữ
là văn công thì không nói làm gì, đằng này y mang đồng phục lính miền Nam, được
ưu đãi không ra trận một ngày!
Nghĩ mà tội cho thế hệ trẻ hôm qua. Họ không có tiếng nói. Nhất là những người cầm súng chiến đấu ngoài vòng đai SG.
May mà còn có Tình Thương.
Cuối cùng, một câu hỏi, với những hy sinh lớn
lao như vậy, làm cách gì để được đọc tác phẩm của họ, hay những di cảo của họ?
Làm cách gì để biết tiểu sử của họ, và sự đóng góp lớn lao của họ vào nền văn
chương thời chiến, giúp cho những tạp chí có tầm cỡ
như Văn, Khởi Hành, Thời
Tập sống mạnh, sống vững? Làm thế nào để tham khảo mảng văn học
chiến tranh kéo dài từ 1964 đến
1975?
Cách dễ nhất là mở bộ Văn Học Tổng Quan Miền
Nam của Võ Phiến để tham khảo. Hoàn toàn tôi không tìm
thấy.
Kết luận
Không có một tạp chí nào mà nửa thế kỷ sau, người nguyên là chủ nhiệm lại thổn thức khi nhớ đến một người bạn đứng sau lưng để giúp đỡ hỗ trợ báo Tình Thương mà ông gọi là cảm tình viên, như thế này:
Không có một tạp chí nào mà nửa thế kỷ sau, người nguyên là chủ nhiệm lại thổn thức khi nhớ đến một người bạn đứng sau lưng để giúp đỡ hỗ trợ báo Tình Thương mà ông gọi là cảm tình viên, như thế này:
“... Trời ở Lyon Pháp bây giờ sang Thu làm tôi nhớ Sài Gòn Nov 63, cây cối bắt đầu trụi lá buồn thênh thang, nhớ quê hương yêu dấu đã vĩnh viễn xa rời gần 35 năm qua, hình ảnh Phạm Văn Lương đã hiện về trong tâm khảm tôi, nước mắt trào lên mắt tôi, niềm cảm xúc quá mạnh tôi thổn thức khiến vợ tôi trên lầu chạy xuống và âu yếm nói: “Mon Vy, pourquoi tu pleures, je reste à côté de toi, le passé et les souvenirs sont toujours difficile à supporter". Ma pauvre Sylvienne ơi! La vie n'est pas plus simple comme çà, laisses moi pleurer pour mes “disparus". Ngàn lần vĩnh biệt Phạm Văn Lương.” (*)
(*) Sau năm 1975, Phạm Văn Lương tuẫn tiết trong trại khổ sai).
Vì sao?
Vì nó không phải là của riêng ai, hay của nhóm hay thế lực nào. Nó là của chung. Nó có một trái tim rất lớn là trái tim tuổi trẻ, một tuổi trẻ trí thức nhập cuộc và dấn thân. Nó là một mái nhà chung cho một đại gia đình. Nó là một nơi qui tụ những người biết mình phải làm gì. Tôi không hiểu với những người áo trắng ấy, một đêm có khi bị lôi dậy năm, mười lần, hay bận bịu phải lo những kỳ thi, thực tập, bài vở chất đống, vậy mà có thì giờ đâu để mà bồi dựng tờ báo đến 4 năm như thế. Vậy mà họ đã làm. Và thành công. Và họ hãnh diện. Như nhà văn/ nhà thơ Trang Châu đã hãnh diện về cái “lò” Tình Thương của ông:
Vì nó không phải là của riêng ai, hay của nhóm hay thế lực nào. Nó là của chung. Nó có một trái tim rất lớn là trái tim tuổi trẻ, một tuổi trẻ trí thức nhập cuộc và dấn thân. Nó là một mái nhà chung cho một đại gia đình. Nó là một nơi qui tụ những người biết mình phải làm gì. Tôi không hiểu với những người áo trắng ấy, một đêm có khi bị lôi dậy năm, mười lần, hay bận bịu phải lo những kỳ thi, thực tập, bài vở chất đống, vậy mà có thì giờ đâu để mà bồi dựng tờ báo đến 4 năm như thế. Vậy mà họ đã làm. Và thành công. Và họ hãnh diện. Như nhà văn/ nhà thơ Trang Châu đã hãnh diện về cái “lò” Tình Thương của ông:
Riêng tôi, ngồi viết lại kỷ niệm của thời làm
báo Tình Thương, tôi có thể nói mà không sợ người đọc cho rằng tôi giả bộ khiêm
nhường, rằng nếu không có hai năm viết lách hăng say trên tờ Tình Thương, không
chắc gì tôi còn theo đuổi nghiệp văn chương cho đến ngày hôm
nay. (tập san Y
Sỹ số
184)
TRẦN HOÀI
THƯ
New Jersey
03.2017
EmoticonEmoticon