Theo
dự kiến của Scientific Reports thì hôm nay
(12/4) là ngày họ công cố công trình nghiên cứu của Bs Hà Tấn Đức. Cái giờ phút
quan trọng của một công trình nghiên cứu công phu và qui mô, kéo dài gần 3 năm
từ lúc 'thai nghén' đến lúc kết thúc, là đây. Đây là một "achievement" quan
trọng, một thành quả đẹp sau bao nhiêu ngày tháng miệt mài làm việc và suy nghĩ.
Sự việc còn minh chứng cho ý tưởng tôi hay nói là nghiên cứu có phẩm chất cao có
thể làm ở bất cứ nơi nào (chứ không hẳn phải ở thành phố lớn hay "trung ương"
mới làm được.)
Ý
tưởng về công trình này được "thai nghén" từ những 4-5 năm trước. Ai cũng biết
nguy cơ tử vong ở bệnh nhân khoa cấp cứu khá cao, và nhất là ở Việt Nam nơi mà
bệnh viện lúc nào cũng quá tải. Ở nước ngoài, người ta có những mô hình tiên
lượng để đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh nhân, và qua đó mà sắp xếp ưu tiên
điều trị. Tiếng Anh gọi là "triage". Mấy mô hình này được phát triển ở bệnh nhân
Âu Mĩ, và nói chung các mô hình đó có khả năng tiên lượng rất tốt, giúp cho bác
sĩ rất nhiều trong việc quản lí bệnh nhân. Chúng tôi tự hỏi là các mô hình này
có áp dụng được cho Việt Nam không, và có cách nào để phát triển một mô hình hi
vọng là tốt hơn dành cho bệnh viện Việt
Nam.
Hai
câu hỏi đơn giản vậy, nhưng phải đến 4 năm sau mới thành hiện thực. Giai đoạn
đầu là làm một nghiên cứu gọi là "validation", tức kiểm định các mô hình của Âu
Mĩ ở bệnh nhân Việt Nam. Công trình này làm trên hơn 1700 bệnh nhân ở Bv Đa khoa
Trung ương Cần Thơ, và đã công bố trên một tập san quốc tế vào năm 2015. Sau khi
có kết quả đó, chúng tôi thực hiện bước thứ hai, qui mô lớn hơn và công phu hơn.
Bước thứ hai được thực hiện trên khoảng 2000 bệnh nhân, trước hết là xác định
các yếu tố lâm sàng và xét nghiệm sinh hoá có thể dùng cho dự báo nguy cơ tử
vong và xây dựng thành vài mô hình tiên lượng; sau đó kiểm tra mô hình này ở một
bệnh viện khác cũng gần 2000 bệnh nhân. Tổng cộng là gần 4000 bệnh nhân trong
nghiên cứu thứ hai. Kết quả mĩ mãn và có thể nói là "đẹp". Còn đẹp như thế nào
và công phu ra sao thì các bạn phải chờ bài báo công bố nay mai để
biết.
Do
đó, lần này Bs Đức và tôi phải tìm chỗ để gọi là "Chọn mặt gửi vàng", và chúng
tôi chọn Scientific Reports. Lí do tại sao
chọn Scientific Reports là vì vấn đề ấn phí, mô
hình công bố Mở, và uy danh của tập san. Vì tác giả xuất phát từ Việt Nam, được
xem là một nước đang phát triển, nên tập san miễn phí cho tác giả. (Nếu tác giả
từ Úc thì ấn phí khoảng 1500-2000 USD một bài). Thứ hai
là Scientific Reports theo mô hình xuất bản Mở,
nên bất cứ ai cũng có thể tải về để đọc mà không phải trả tiền. Sau cùng là uy
tín của tập san vốn là của tập đoàn lừng danh Nature (bây giờ thì bị Springer
mua rồi, nhưng không đổi tên). Scientific
Reports ra đời mới đây là để cạnh tranh với PLoS ONE lúc đó
đang "nổi như cồn", nhưng chỉ sau vài năm với cái thương
hiệu Nature, Scientific Reports đã qua mặt PLoS
ONE về tầm ảnh hưởng (nếu đo bằng impact
factor).
Bs
Đức viết thư cho tôi nói rằng cho đến giờ em ấy vẫn còn cảm giác lâng lâng. Em
lo lắng rằng "chắc sau này khó mà em công bố được bài báo nào lớn như bài
này." Tôi nói rằng một lần sau sẽ công bố trên một tập san còn lớn hơn và
"ngon lành" hơn Sci Reports nữa. Chưa biết khi
nào, nhưng điều đó chắc chắn sẽ thành hiện
thực.
Trước
đây, chúng tôi đã có những nghiên cứu "thuần Việt" trên những tập san hàng đầu
trong chuyên ngành. Đã có tên tuổi Việt Nam trên Int J
Epidemiol, Diabetes Care, Diabetologia, Bone, Osteoporosis Int, Am J Clin
Nutr, và quan trọng nhất là Journal of Clinical
Endocrinology and Metabolism. Nay đến Sci Reports. Do
đó, chúng ta có cơ sở và lí do để tiến xa hơn và cao hơn trên bậc thang đẳng cấp
quốc tế.
Tôi
thấy xu hướng mới trong khoa học ngày nay là "Big Science". Cũng giống như toàn
cầu hoá, và xu hướng các nước hình thành theo khối vùng kinh tế (như APEC chẳng
hạn), khoa học cũng có xu hướng đó. Đó là xu hướng các labo hay nhóm nghiên cứu
trên thế giới tự hình thành các tập đoàn khoa học, gọi là "consortium", để chung
tay giải quyết một vấn đề khoa học. Các dự án Big Science thường công bố trên
các tập san hàng đầu như Nature, Science, Cell, NEJM, Lancet, JAMA, v.v. Làm
khoa học riêng lẻ sẽ khó có cơ may xuất hiện trên tập san số 1 trên thế giới. Do
đó, tôi nghĩ VN nên hình thành các consortia khoa học, và Nhà nước nên tài trợ
cho các tập đoàn
này.
Nhưng
trong thực tế thì VN rất khó hình thành consortia khoa học. Nó xuất phát một
phần từ cá tính người mình, chẳng ai nể ai, chẳng ai chịu làm việc chung với
nhau, thậm chí còn đố kị, ganh ghét, người này mới "leo lên" một chút thì đã bị
dèm pha và kéo xuống (giống y như hình ảnh những con cua trong rọ). nên khó có
thể làm việc chung trong các consortia khoa học. Do đó, các nhà khoa học VN chỉ
còn cách là tham gia vào các tập đoàn quốc tế. Vấn đề là tham gia như thế nào mà
mình phải giữ "tài sản" cho mình, không bị mất cho người khác. Điều này đòi hỏi
bản lĩnh của cá nhân nhà khoa học. Để tham gia các tập đoàn khoa học quốc tế thì
mình phải có "credential" cái đã. Credential qua công bố quốc tế trên các tập
san lớn. Bs Đức đang tạo cái credential đó cho
VN.
Nhân
dịp này thì tôi cũng gửi lời chúc mừng đến Bs Đức và đồng nghiệp đã hoàn tất đẹp
công trình nghiên cứu đẹp, góp phần đưa tên tuổi Việt Nam trên trường quốc tế.
Để chứng minh rằng đây không chỉ là công bố quốc tế cho đẹp lí lịch, mà nghiên
cứu còn phải đem lại lợi ích thiết thực cho bệnh nhân, bước kế tiếp là đăng kí
bản quyền sáng chế. Sau đó là triển khai để các bác sĩ trên thế giới sử dụng mô
hình của Bs Đức, chắc chắn sẽ giúp giảm tử vong cho nhiều bệnh nhân. Và, như vậy
là một đóng góp có ý nghĩa cho y học nước nhà
rồi.
EmoticonEmoticon