Hôm kia, nhân dịp xem qua số lượng công bố quốc tế của Việt Nam, tôi tự hỏi là năng suất khoa học của hai đại học lớn nhất VN nếu so sánh với vài đại học trong vùng thì như thế nào. Bảng dưới đây sẽ cho chúng ta thấy quả thật năng suất khoa học của hai đại học quốc gia VN là khá thấp, nhưng vẫn còn khá hơn các đại học của Nam Dương và Phi Luật Tân.
Biểu
đồ phản ảnh số faculty (giảng viên, giáo sư) và số bài báo khoa học công bố trên
các tập san trong danh mục ISI năm 2016-2017 (tính đến
10/6/2017).
Phải
vất vả lắm mới có dữ liệu của Việt Nam. Theo số liệu báo cáo thường niên năm
2016, ĐHQGHCM có 3401 giảng viên, giáo sư và nhà nghiên cứu (gọi chung là
faculty); trong số này có 313 người là GS/PGS. Số liệu của Web of Science cho
thấy trong thời gian 2016-2017, ĐHQGHCM công bố được 261 bài báo khoa học. Như
vậy số bài báo khoa học trên mỗi faculty là 0.08. (Trong thực tế, tôi nghĩ số
bài báo của ĐHQGHCM là hơn con số 261, vì các tác giả ghi tên trường khá tùy
tiện nên ISI đếm không hẳn chính xác. Con số thật có thể 300 hay hơn một chút).
ĐHQGHN
thì số liệu tương đối rõ ràng hơn, nhưng cũng khá khó tìm. Theo trang web của
đại học thì ĐHQGHN có 2238 faculty; trong đó có 405 GS/PGS. Số công bố quốc tế
trong thời gian 2016-2017 là 412. Như vậy, năng suất khoa học của ĐHQGHN cao hơn
ĐHQGHCM gấp 2.2 lần. (Nhưng tôi hơi nghi con số faculty của ĐHQGHN, vì trong
thực tế có thể cao hơn
nhiều).
Chúng
ta thử xem qua vài đại học trong vùng ĐNA. Thái Lan có nhiều đại học hàng đầu,
nhưng chúng ta chỉ xem Mahidol và Chulalongkorn cho gọn. Mahidol có 3766
faculty, và với số bài báo trong thời gian 2016-2017 là 2337, năng suất của họ
là 0.62. Chulalongkorn có số faculty thấp hơn -- nhưng công bố nhiều bài báo hơn
-- Mahidol, do đó năng suất của Chulalongkorn (0.77) cao hơn
Mahidol.
Mã
Lai có ĐH Malaya là trường "đang lên." Malaya có 2807 faculty, nhưng công bố
quốc tế của họ lên đến 4700 trong thời gian 2016-2017! Do đó, tính trung bình,
mỗi faculty công bố được 1.67 bài báo khoa học. Năng suất trên 1 này cũng thấy ở
ĐH Putri Malaysia và Sains
Malaysia.
ĐHQG
Singapore (NUS) có 2448 faculty, và họ công bố 8828 bài báo khoa học trong thời
gian 2016-2017. Tính trung bình năng suất khoa học của NUS là 1.49. Năng suất
của NUS có phần cao hơn NTU (1.38). Cần nói thêm là bảng xếp hạng QS năm 2018
cho thấy NTU được xếp hạng cao hơn cả
NUS.
Ở
Phi Luật Tân, Đại học Philippines và Đại học Philippines Diliman (UPD) là hai
đại học hàng đầu. UP có đến 5389 faculty, nhưng trong thời gian 2016-2017 họ chỉ
công bố được 392 bài báo khoa học (tức chỉ tương đương với ĐHQGHN). Năng suất
của UP do đó chỉ 0.14, thậm chí còn thấp hơn cả
UPD.
Nam
Dương thì có ĐH Indonesia với lịch sử hơn 100 năm là đại học hàng đầu. UI có đến
khoảng 7300 faculty (trong đó có hơn 2000 GS/PGS), nhưng công bố quốc tế của họ
chỉ 545 bài trong thời gian 2016-2017. Do đó, năng suất khoa học của UI là thấp
nhất trong vùng Đông Nam
Á.
Tóm
lại, những dữ liệu này cho thấy năng suất khoa học của hai đại học lớn nhất và
hàng đầu của VN còn thấp, và chỉ tương đương với các đại học của Nam Dương và
Phi Luật Tân. Nhìn qua kết quả phân tích này, chúng ta có thể chia các đại học
này thành 3
nhóm:
Nhóm
"cao": NUS, NTU,
Malaya.
Nhóm
"trung bình": Mahidol, Chula, Putri Malaysia, Sains Malaysia, Tekologi
Malaysia.
Nhóm
"thấp": VNUHN, VNUHCM, UP, UPD, U.Indonesia, Gadiah
Mada.
Dĩ
nhiên, những con số này chỉ để tham khảo, chứ chưa nói lên chính xác tình hình,
vì các con số có khi thiếu nhất quán giữa các trường, và nhất là chưa có con số
đầu tư (bằng tiền) cho nghiên cứu khoa học của mỗi trường. Tôi biết chắc rằng
các đại học như NUS, NTU (của Singapore) và Malaya (của Mã Lai) đầu tư rất nhiều
tiền cho nghiên cứu khoa học và thu hút các giáo sư Âu Mĩ về làm việc. Tuy
nhiên, cho dù Việt Nam có nâng mức đầu tư khoa học cho các trường hàng đầu thì
chưa chắc nâng cao được phẩm chất nghiên cứu khoa học, nếu không có những cải
cách căn bản về hệ thống và qui định tài trợ khoa
học.
===
TB:
Những số liệu về faculty có thể chưa chính xác, bởi vì mỗi nơi có định nghĩa
khác nhau về số "academic staff" hay "research staff". Tất cả các số liệu về
faculty được thu thập từ các báo cáo thường niên (annual reports) của NTU, NUS,
Malaya, Mahidol, hoặc qua trang web của mỗi trường. Số faculty không tính số
nhân viên "support" và hành
chính.
Riêng
trường hợp Việt Nam cần phải cẩn thận trong so sánh, vì cách viết tên trường của
các nhà khoa học thuộc ĐHQGHCM, nói chung, rất tùy
tiện.
EmoticonEmoticon