Vấn đề chích ngừa ở trẻ em đã
từng gây ra nhiều tranh cãi không cần thiết. Những tranh cãi này thường xuất
phát từ những nghiên cứu dỏm của những chuyên gia thật. Điển hình là vụ "vaccine
gây chứng tự kỉ" của Bs Andrew Wakefield công bố trên Lancet làm cho biết bao
nhiêu bà mẹ hoang mang. Bài báo sau này phải bị rút lại và Wakefield bị rút giấy
hành nghề. Nhưng tác động tiêu cực của bài báo thì vẫn còn cho đến
nay.
Mới đây, lại thêm một bài báo
trên một tập san dỏm cũng cho rằng chích ngừa có liên quan đến dị ứng và các rối
loạn về tăng trưởng thần kinh (NDD). Tác giả bài báo này là một chuyên gia về
dịch tễ học, giữ chức vụ giáo sư tại trường đại học nhỏ có tên là Jackson State
University (Mĩ). Bài này cũng bị rút lại 2 lần, nhưng trước khi bị rút xuống nó
cũng đã là cái phao cho nhiều người nghi ngờ vaccine có lí do để không chích
ngừa cho con mình. Bài viết dưới đây của Bs Thạch giải thích tại sao bài báo này
không đáng tin cậy, và giới báo chí tiếng Việt cần phải cẩn thận đưa tin tức
liên quan đến y
học.
Có thể nói rằng trong y văn có
rất nhiều thông tin rác rưởi xuất hiện dưới danh nghĩa "nghiên cứu khoa học".
Trong nhiều trường hợp, phân biệt giữa thật và giả không phải đơn giản, nhất là
những bài báo nằm giữa lằn ranh giữa khoa học chính thống và ngụy khoa học.
Trong những trường hợp đó, để đánh giá đúng thông tin có khi cần đến người am
hiểu về nghiên cứu y khoa, và bài viết dưới đây là của một người trong nghiên
cứu y
khoa.
NVT
===
Có thật chích ngừa làm trẻ em
kém khỏe
mạnh?
Gần đây có một số “tin đồn”
[1,2] lan truyền trên mạng về nguy cơ lâu dài cho những
trẻ được chích ngừa. Trong bài này tôi sẽ giải thích rằng đây là một tin đồn
nguy hiểm, và công chúng không nên tin vào những thông tin loại này. Chích ngừa
là một hình thức bảo vệ sức khỏe cho trẻ em và giúp trẻ em tăng trưởng đúng tiềm
năng.
Những lời đồn đại này xuất phát
từ kết quả một “nghiên cứu” của tác giả AR Mawson [3] vừa được xuất bản trên
"Journal of Translational Science" vào tháng 4/2017. Một điều rất quan
trọng cần phải biết là bài báo này đã bị 2 tập san khoa học rút lại 2 lần. Tập
san Frontiers in Public Health vào năm 2016
[4] và ngày 8/5/2017 từ chính tập
san Journal of Translational Science. Đây là 2 tập san được
xếp loại "dỏm" hay gần dỏm.
Sau khi đọc kĩ bài báo đó, tôi
thấy có quá nhiều sai sót về phương pháp, từ khâu thiết kế, chọn mẫu, thu thập
thông tin và phân tích dữ liệu. Với những sai sót về phương pháp thì kết quả
cũng chẳng có giá trị khoa học nào để chúng ta quan tâm. Điều này cũng có nghĩa
là bài báo không đủ tin cậy để đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của chích
ngừa. Dưới đây, tôi chỉ giải thích vắn tắt những vấn đề của cái gọi là "nghiên
cứu" này:
Vấn đề 1: chọn mẫu thiên
lệch
Điều bất bình thường đầu tiên
là nhóm tác giả chọn những trẻ học tại nhà (homeschooling children) làm đối
tượng nghiên cứu. Ở Mỹ, nhóm trẻ học tại nhà, tức không đến trường, là rất ít.
Chỉ có 3% trẻ ở Mỹ là học tại nhà. Một điểm quan trọng là những trẻ em học ở nhà
thường không muốn chích
ngừa.
Nhóm nghiên cứu chọn 131 cơ
quan địa phương quản lý trẻ học tại nhà (local homeschool organizations) tại 4
bang (Florida (84 cơ quan), Louisiana (18), Mississippi (12) và Oregon (17)).
Nghiên cứu đã thu thập được tổng cộng 415 bảng trả lời với thông tin của 666 trẻ
trong suốt 3 tháng tiến hành, tức là tính trung bình chỉ thu
thập được 3 bảng trả lời (hay chỉ 5 trẻ) tại một địa
phương.
Do đó, mẫu nghiên cứu được chọn
để nhằm tăng số trẻ em không chích ngừa, và ngay cả trong số này thì số trả lời
cũng rất thấp. Với cách chọn mẫu thiên lệch như vậy, rõ ràng là kết quả này
không thể ứng dụng được cho trẻ 6-12 tuổi học tại nhà ở Mỹ, chứ chưa nói gì đến
cho trẻ em cùng tuổi ở Mỹ (như tác giả đặt tựa cho bài báo của minh) và các nước
khác vốn có những đặc điểm rất khác biệt so với nhóm trẻ được chọn “thuận tiện”
vào nghiên cứu
này.
Vấn đề 2: thông tin thu thập
theo định hướng tiêu
cực
Bảng câu hỏi bắt đầu bằng những
thông tin có định hướng bao gồm những câu hỏi mang thông tin tiêu cực phản ánh
định kiến của nhóm nghiên cứu. Ví dụ ngay trong lời giới thiệu nhóm nghiên cứu
đã bỏ qua rất nhiều nghiên cứu công phu và viết
rằng:
“Nghiên cứu này quan tâm đến
một vấn đề sức khỏe rất quan trọng, đó là liệu chích ngừa có liên quan đến tình
trạng sức khỏe lâu dài của con bạn không. Dù chích ngừa được đánh giá là một
phát kiến vĩ đại trong y học nhưng những ảnh hưởng lâu dài của chích ngừa lên
sức khỏe còn chưa được biết
đến”.
Ngoài ra, do đây là một dạng
đánh giá trực tuyến với bản hỏi được xây dựng “thuận tiện” bằng các câu hỏi đóng
chỉ cho phép trả lời có/không, người trả lời buộc lòng phải chọn lựa trả lời nào
gần đúng hơn. Trong những tình huống chưa rõ ràng, những định hướng tiêu cực như
vậy sẽ làm tăng khả năng người phỏng vấn chọn câu trả lời tiêu cực về ảnh hưởng
của chích
ngừa.
Vấn đề 3: thông tin thu thập
không kiểm chứng và thiên lệch theo hướng có lợi cho định kiến của người nghiên
cứu
Tất cả các thông tin thu thập
được là do người mẹ tự trả lời và nhóm nghiên cứu không hề kiểm tra mức độ chính
xác của thông tin. Nhóm nghiên cứu khuyến khích người mẹ sử dụng sổ chích ngừa
của con khi trả lời câu hỏi nhưng họ không thực hiện những biện pháp để thúc đẩy
người mẹ buộc phải sử dụng thông tin trong sổ chích ngừa để có thể hoàn tất câu
hỏi. Thực tế họ lại loại bỏ những thông tin, ví dụ ngày chích ngừa mà người mẹ
không thể trả lời được nếu không có sổ chích ngừa của con với lý do để “thuận
tiện” và “tránh báo cáo sai”. Tôi không tin có nhà nghiên cứu nào lại đặt thuận
tiện trong thu thập thông tin quan trọng hơn độ tin cậy của thông tin trừ khi họ
có chủ ý
riêng.
Kết quả trẻ chủng ngừa có nhiều
bệnh hơn có thể đơn giản là do trẻ được chích ngừa đến khám bác sĩ nhiều lần hơn
và do đó có nhiều cơ hội để phát hiện các tình trạng bất thường về sức khỏe hơn.
Ngược lại trẻ không chích ngừa có nhiều bệnh lý không phát hiện ra do không đi
khám chứ không nhất thiết là ít có bệnh hơn. Ngoài ra do thông tin về mức độ
nặng của bệnh không được thu thập và trẻ không chích ngừa ít đi khám bệnh hơn,
vẫn có khả năng là trẻ không chích ngừa mắc phải bệnh ở giai đoạn nặng hơn dù
“số lượng” bệnh là ít hơn trẻ được chích
ngừa.
Vấn đề 4: phân tích theo định
hướng của nghiên cứu viên và nhà tài trợ
Nhóm nghiên cứu không giải
thích lý do tại sao phương thức phân tích thay đổi so với dự tính ban đầu. Như
trình bày trong phần phương pháp nghiên cứu, chích ngừa sẽ được phân tích dưới
dạng ba nhóm: không chích ngừa, chích ngừa một phần và chích ngừa hoàn toàn.
Điều này hoàn toàn hợp lý với mục tiêu phân tích để thấy được “những ảnh hưởng
lâu dài của chích ngừa sẽ rõ ràng hơn trong nhóm chích ngừa hoàn toàn so với
nhóm chích một phần, và sẽ ít (hay không gặp) trong nhóm không chích ngừa”. Với
cách chọn mẫu thuận tiện, mẫu nghiên cứu bao gồm 30% trẻ chích ngừa hoàn toàn,
31% chích một phần và 39% không chích ngừa, vốn hoàn toàn đủ cho phân tích đã
lên kế hoạch ban đầu. Tuy nhiên ngoại trừ trong phân tích mô tả, nghiên cứu đã
gộp cả nhóm chích ngừa đủ và chích một phần thành một nhóm duy nhất mà không có
bất kỳ một lời giải thích nào về sự thay đổi
này.
Người đọc có quyền nghi ngờ đây
là chỉ dấu của một dạng thiên lệch (confirmation bias) khi người phân tích (đồng
thời cũng là người xây dựng đề cương và tiến hành nghiên cứu) cố gắng “ép” kết
quả phân tích ra theo định kiến ban đầu của bản thân và thuận lợi cho nhà tài
trợ. Nói như Coase R “Nếu bạn tra tấn số liệu đủ lâu bạn sẽ có được kết quả minh
mong muốn” (If you torture the data long enough, it will confess to
anything).
Ngoài ra ảnh hưởng của sinh non
lên mối quan hệ giữa chích ngừa và rối loạn phát triển thần kinh chưa được giải
quyết rõ ràng trong phân tích. Dù phải công nhận là “sinh non được đánh giá là
yếu tố quan trọng dẫn đến rối loạn phát triển thần kinh ở trẻ nhỏ” và” không thể
đánh giá ảnh hưởng riêng biệt của sinh non và chích ngừa” lên bệnh lý của trẻ,
nhưng nhóm tác giả vẫn “mạnh dạn” khẳng định “chích ngừa là yếu tố góp phần gây
bệnh”.
Vấn đề 5: tổ chức tài
trợ
Nghiên cứu này được hai tổ chức
chống lại chích ngừa cho trẻ em tài trợ. Đó là Generation Recue Inc. và the
Children’s Medical Safety Research Institute. Thực tế tổ chức Age of Autism thậm
chí tiến hành những chương trình kêu gọi tài trợ cho nghiên cứu
này5 với kinh phí lên đến nửa triệu USD. Tôi thật sự
không hiểu một đánh giá trực tuyến đơn giản với chỉ 415 bảng câu hỏi thu thập
được lại cần đến một kinh phí cao đến như vậy. Tương tự như vấn đề về ảnh hưởng
bất lợi của công ty thuốc trong các nghiên cứu khoa học được họ tài trợ, người
đọc cũng cần cảnh giác với những ảnh hưởng của nhà tài trợ trong kết quả nghiên
cứu này.
Vấn đề 6: lịch sử xuất
bản
Nghiên cứu này có một lịch sử
xuất bản khá đặc biệt. Bài báo được xuất hiện lần đầu trên tạp
chí Frontiers in Public Health [4] vào năm 2016
sau khi được một chuyên gia về vật lý trị liệu (chiropractor) vốn không có kinh
nghiệm gì về dịch tể học, bệnh rối loạn thần kinh và chích ngừa “bình duyệt”.
Ngay khi vừa xuất bản tập san đã phải trấn an “bài báo này mới chỉ được chấp
nhận trên nguyên tắc chứ chưa thật sự được xuất bản” (the article was
provisionally accepted but not published). Kết quả là bài báo được rút lại sau
đó chỉ vài
ngày.
Đến tháng 3/2017 bài báo được
gửi lại cho tạp chí Journal of Translational Sciencevà được
đăng trực tuyến chỉ trong vòng 1 tháng tính từ ngày gửi (ngày gửi: 22/3/2017,
ngày đăng: 24/4/2017). Không có thông tin gì về bình duyệt và chỉnh sửa sau bình
duyệt dù tạp chí này khẳng định là có hệ thống bình duyệt. Tại chính tạp
chí Journal of Translational Science, bài báo này bị rút lại
một lần vào ngày 8/5/2017 và sau đó xuất hiện lại vào ngày
18/5/2017.
Cần chú ý là cả hai tạp chí này
đều bị xếp vào dạng tạp chí dỏm (predatory journals)
[6] và số đầu tiên của tạp chí Journal
of Translational Sciencemới ra mắt vào tháng
7/2015.
Với những sai sót và thiên lệch
trong tất cả các qui trình nghiên cứu bao gồm chọn mẫu thiên lệch, thu thập
thông tin không kiểm chứng và phân tích số liệu có chủ ý, rõ ràng kết quả của
công trình “nghiên cứu” của Mawson hoàn toàn không đủ độ tin cậy để đưa ra những
đánh giá về ảnh hưởng của chích ngừa lên sức khỏe của trẻ tại Hoa Kỳ và các nước
khác. Những vấn đề liên quan đến cơ quan tài trợ và lịch sử xuất bản của bài báo
này là những chỉ dấu để người đọc cần thận trọng
hơn.
Tôi nghĩ rằng các nhà báo Việt
Nam cần tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm của nguồn tin và tham khảo thêm ý kiến của
các chuyên gia trong ngành nhằm tránh truyền đạt cho công chúng những thông tin
sai lệch vốn có thể đưa đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Bài báo này, tốt nhất chỉ
nên được xem như một ví dụ mà bất cứ nhà nghiên cứu nào không
được làm nếu muốn công trình nghiên cứu của mình được chấp
thuận trên một tạp chí có bình duyệt. Các bạn có thể chọn một trong các nghiên
cứu bất kỳ trong danh sách tài liệu tham khảo của nghiên cứu này (ví dụ hai công
trình gần đây đều không cho thấy mối liên quan giữa chích ngừa và bệnh tự
kỷ [7-8]) sẽ thấy rõ khác biệt cả về hình thức và nội
dung so với bài báo của
Mawson.
====
[1] http://trithucvn.net/suc-khoe/nghien-cuu-tre-em-khong-tiem-phong-co-the-khoe-manh-hon-tre-duoc-tiem.html
[2] http://info.cmsri.org/the-driven-researcher-blog/vaccinated-vs.-unvaccinated-guess-who-is-sicker
[3] http://www.oatext.com/Pilot-comparative-study-on-the-health-of-vaccinated-and-unvaccinated-6-to-12-year-old-U-S-children.php
[4] http://newamericannews.com/wp-content/uploads/2017/02/MAWSON-STUDY.pdf
[5] http://archive.is/Nz5XR
[6] http://wayback.archive.org/web/20170103170850/https://scholarlyoa.com/publishers/
[7] http://jamanetwork.com/journals/jama/fullarticle/2275444
[8] http://pediatrics.aappublications.org/content/early/2010/09/13/peds.2010-0309
EmoticonEmoticon